Năm xu hướng kinh tế cần theo dõi trong năm 2025
Để giúp bạn định hướng trong năm kinh tế sắp tới, Viện Kenan bắt đầu năm 2025 với bản tóm lược năm vấn đề sẽ được các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách quan tâm hàng đầu, kèm theo phân tích của chúng tôi. Dù đây không bao giờ là một bài toán dễ, nhưng sự bất định đáng kể về chính sách liên bang và tác động của chúng lên nền kinh tế khiến cho việc dự báo 12 tháng tới càng trở nên thách thức.
Chính sách liên bang sẽ tác động thế nào đến nền kinh tế?
Nền kinh tế Mỹ khởi đầu năm 2025 với nền tảng vững chắc: tăng trưởng GDP ổn định và tạo việc làm khỏe mạnh. Trong khi đó, lạm phát đang giảm dần, nhưng những lo ngại trong công chúng và số liệu mới cho thấy việc đưa lạm phát về đúng mục tiêu 2% của Fed là rất khó. Theo chúng tôi, rủi ro lớn nhất đối với triển vọng kinh tế quốc gia đến từ các chính sách liên bang mới – đặc biệt là sự kết hợp tiềm tàng của chính sách nhập cư, thuế quan, thuế và quy định có thể kìm hãm tăng trưởng và làm tăng lạm phát năm 2025.
Trước tiên là yếu tố kích thích: Đạo luật Cắt giảm Thuế và Việc làm 2017 sẽ hết hạn vào cuối năm 2025, vì vậy khả năng gia hạn của nó là câu chuyện cho năm 2026 nhiều hơn. Tuy nhiên, kỳ vọng rằng các ưu đãi thuế 2017 sẽ được gia hạn cùng với các gói cắt giảm thuế mới và môi trường pháp lý nới lỏng có thể thúc đẩy niềm tin của doanh nghiệp và người tiêu dùng, từ đó tăng chi tiêu và đầu tư trong một số ngành vào năm 2025.
Hai mối lo ngại lớn nhất là:
- Chính sách nhập cư khắt khe có thể làm chậm việc tạo việc làm.
- Thuế quan mới có thể làm tăng lạm phát.
Tạo việc làm là yếu tố then chốt cho tăng trưởng kinh tế (yếu tố còn lại là năng suất, được bàn tiếp bên dưới). Với bối cảnh thị trường lao động hiện nay, cách hiệu quả nhất để lấp đầy các vị trí là mở rộng lực lượng lao động. Trong 10 năm kết thúc năm 2021, lực lượng lao động tiềm năng chỉ tăng 0,5%/năm. Nhưng hai năm gần đây, con số này tăng khoảng 0,9%/năm, chủ yếu nhờ nhập cư, và dự báo sẽ đạt 1% trong năm 2025 nếu duy trì chính sách hiện tại. Nếu đóng cửa biên giới hoặc trục xuất diện rộng, lực lượng lao động có thể giảm mạnh. Một kịch bản phân tích dựa trên tuyên bố chính sách của chính quyền mới cho thấy có thể mất 1,2 triệu việc làm và tăng trưởng GDP sụt giảm đáng kể. Để so sánh: năm vừa qua, Mỹ tạo được 2,3 triệu việc làm và GDP tăng 2,7%.
Hiện tại, thuế quan mang lại 85 tỷ USD cho chính phủ từ 4,2 nghìn tỷ USD nhập khẩu – tức mức thuế suất hiệu quả khoảng 2%. Trong 10 năm kết thúc năm 2016, mức này chỉ 1,2% và cao nhất thời Tổng thống Trump là 2,8%. Trong thời kỳ Đạo luật Smoot-Hawley, gắn liền với Đại Khủng hoảng, mức thuế đạt đỉnh 15%. Khi đó, nhập khẩu chỉ chiếm 3% nền kinh tế (so với 5% trước đó). Ngày nay, nhập khẩu chiếm tới 14% GDP Mỹ. Với tỷ trọng này, bất kỳ sự gia tăng đáng kể nào của thuế quan đều sẽ đẩy lạm phát tăng rõ rệt, mức độ truyền dẫn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cạnh tranh thị trường và biến động đồng USD.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ phản ứng ra sao?
Thông thường, Fed bỏ qua các cú sốc giá do cầu yếu đi – ví dụ giá năng lượng tăng vì địa chính trị. Nhưng lần này tình hình phức tạp hơn. Do đã phản ứng chậm với chu kỳ lạm phát gần đây, Fed rất thận trọng trước mọi tín hiệu lạm phát tăng, bao gồm dữ liệu mới cho thấy lạm phát vẫn cao hơn mục tiêu. Chỉ số giá ưa thích của Fed tăng 2,4% trong năm qua, trong khi “lõi” ít biến động hơn tăng 2,8%. Hàng loạt thuế quan leo thang và trả đũa sẽ giống như một xu hướng lạm phát chứ không chỉ là tăng giá nhất thời. Fed sẽ theo dõi sát kỳ vọng lạm phát từ người tiêu dùng và thị trường để phát hiện mọi dấu hiệu mất kiểm soát.
Các chính sách nhập cư khắt khe cũng có thể làm lạm phát tăng theo nhiều cách. Việc giảm nguồn cung lao động sẽ hạn chế tăng trưởng tiềm năng, vốn đã mang tính lạm phát, đặc biệt nếu các chính sách thuế và quy định khuyến khích tăng trưởng. Thêm vào đó, do lao động nhập cư chiếm tỷ trọng lớn trong ngành xây dựng, các chính sách nhập cư mới có thể làm tăng giá nhà – vốn là nguồn áp lực lạm phát dai dẳng. Lạm phát nhà ở tăng 4,8% trong năm qua, đã giảm so với đỉnh 8,3% đầu 2023 nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mức trung bình 2,7% trong giai đoạn 2010–2019.
Năng suất có thể cứu cánh?
Ứng viên Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent hình dung nền kinh tế “3-3-3”: tăng trưởng GDP 3%, thâm hụt ngân sách 3% và tăng sản lượng dầu Mỹ thêm 3 triệu thùng/ngày. Với dân số già hóa và khả năng nhập cư giảm, cách duy nhất để đạt 3% GDP là năng suất phải tăng hơn 2,5%. Điều này cũng giúp dễ đạt mục tiêu thâm hụt ngân sách do tăng trưởng nhanh tạo ra nhiều thuế hơn và giảm chi cho an sinh. Nhưng từ 2004 đến nay, năng suất Mỹ chỉ tăng 1,6%/năm, thấp hơn nhiều so với giai đoạn 1995–2004 là 3,1%.
Tin lạc quan thận trọng là vài năm gần đây đã xuất hiện dấu hiệu phục hồi năng suất. Trong 5 năm qua, năng suất tăng 2,5%/năm, so với mức 1,3% trong thập kỷ 2010. Đây là một nguyên nhân giúp Mỹ vừa tăng trưởng mạnh vừa giảm lạm phát. Năng suất cao gắn liền với lạm phát thấp, nên Fed rất hoan nghênh xu hướng này. Có thể Mỹ đang hưởng lợi từ các đổi mới công nghệ bắt đầu từ đầu những năm 2000 như di động, ứng dụng số, năng lượng tái tạo và xe điện.
Tác động của trí tuệ nhân tạo (AI) còn quá sớm để thấy rõ trong số liệu năng suất. Thực tế, hiện AI có thể làm giảm năng suất vì doanh nghiệp chi mạnh nhưng chưa thu được lợi ích tương xứng. Khó khăn của dữ liệu năng suất là tín hiệu dễ bị nhiễu, khó phân biệt đâu là xu hướng thực, đâu chỉ là biến động do COVID-19, làm việc kết hợp (hybrid) và nhân khẩu học.
Kinh tế địa phương có khác biệt?
Do sự bất định lớn từ chính sách liên bang và nguy cơ kéo lạm phát cũng như kìm hãm tăng trưởng, cả 150 Vùng đô thị mở rộng (EMAs) mà Viện Kenan mô hình hóa trong Dự án Tăng trưởng Mỹ đều dự báo tăng trưởng chậm hơn nhưng vẫn dương trong 2025. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng không đồng đều. Các vùng tăng trưởng nhanh gần đây – thường nhờ đổi mới và dòng di cư nội địa – sẽ tiếp tục vượt trội. Những vùng này có dự trữ vốn lớn dưới dạng lao động lành nghề, hạ tầng công nghệ và các khoản đầu tư khác, giúp giảm thiểu rủi ro chính sách. Ngược lại, những vùng phụ thuộc nhiều vào nhập cư, nhà ở và thương mại quốc tế sẽ chịu rủi ro cao hơn.
Vì sao phát triển kỹ năng lại quan trọng?
Kỹ năng có vai trò cực kỳ quan trọng, và Mỹ dường như đang đối mặt với “khoảng cách kỹ năng” dai dẳng – tức kỹ năng của người lao động chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Đây là một xu hướng đáng lo ngại. Như chúng tôi viết tháng 5/2023: “Mức độ kỹ năng gắn trực tiếp với năng suất kinh tế; không chỉ cần kỹ năng để thúc đẩy đổi mới, mà ngay cả tác động của đổi mới hay tiến bộ công nghệ cũng sẽ bị hạn chế nghiêm trọng nếu lực lượng lao động thiếu kỹ năng để sử dụng chúng.”
Kể từ đó, tốc độ thay đổi và nhu cầu kỹ năng càng tăng nhanh. Dù việc đo lường kỹ năng còn nhiều tranh cãi, nhưng ngày càng nhiều lãnh đạo và chuyên gia tuyển dụng coi khoảng cách kỹ năng là thách thức lớn. Theo khảo sát năm 2023 của Wiley trên 600 chuyên gia nhân sự, gần 70% báo cáo tổ chức của họ có khoảng cách kỹ năng, so với 55% trong khảo sát 2021. Khi đổi mới công nghệ diễn ra nhanh chóng, đào tạo lực lượng lao động khó có thể theo kịp, và khoảng cách này sẽ còn nới rộng trong ngắn hạn. Thách thức lớn năm 2025 của Viện Kenan sẽ tập trung vào vấn đề này và phát triển giải pháp để thu hẹp thiếu hụt kỹ năng.
Theo https://kenaninstitute.unc.edu/
TS. Hà Thị Duy Linh
Khoa Marketing