ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
Đỗ Văn Tính
Khu công nghiệp, Khu chế xuất
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ (Khoản 20 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005).
Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trỡnh tự và thủ tục quy định tại Nghị định này. Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường hợp quy định cụ thể (Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP).
Khu công nghiệp là địa bàn ưu đãi đầu tư, được hưởng chính sách ưu đãi áp dụng đối với địa bàn thuộc danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Khu công nghiệp được thành lập tại địa bàn thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi áp dụng đối với địa bàn thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (Khoản 1 Điều 16 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Theo quy định tại Khoản 2, 5, 12 Điều 3 Luật Đầu tư 2005 có nêu: “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”, “Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam” và “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”. Như vậy, FDI trong trường hợp này có thể hiểu là việc nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành thực hiện hoạt động đầu tư và tham gia quản lý hoạt động này tại Việt Nam.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) lại có cách nhìn về FDI như sau: FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty" (WTO, 1996).
Ở một góc nhìn khác, Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) đưa ra khái niệm FDI (được nêu trong Sổ tay Cán cân thanh toán quốc tế) như là một loại đầu tư quốc tế phản ánh mục tiêu của một thực thể thường trú trong một nền kinh tế có được một lợi ích lâu dài trong một thực thể doanh nghiệp của một nền kinh tế khác (IMF, 1993).
Hay, FDI còn được nói đến như là một loại đầu tư xuyên biên giới có liên quan đến một thực thể trong một nền kinh tế nắm quyền kiểm soát hoặc có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động quản lý của một doanh nghiệp là thực thể của một nền kinh tế khác (IMF, 2009).
Cùng mối quan tâm đến vấn đề này, Uỷ ban thương mại và phát triển cùa Liên hợp quốc (UNCTAD) đã định nghĩa FDI như là một khoản đầu tư liên quan đến một mối quan hệ dài hạn và phản ánh một lợi ích lâu dài và kiểm soát của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) trong một thực thể doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác hơn so với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc liên doanh nước ngoài).
FDI được ngụ ý rằng các nhà đầu tư tạo nên một mức độ ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động quản lý của các thực thể doanh nghiệp ở một kinh tế khác... và có thể được thực hiện bởi các cá nhân cũng như các tổ chức kinh doanh.
Như vậy từ những khái niệm và định nghĩa nêu trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể được hiểu là hoạt động đầu tư vốn và các tài sản hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài vào một tổ chức hoặc doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư, nhằm nắm quyền kiểm soát hoặc tạo ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động quản lý, điều hành để đạt được những lợi ích dài hạn trong quá trình hoạt động tại nước nhận đầu tư.
Ảnh hưởng tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Một là, FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư trong nước.
Các nghiên cứu của Freeman (2000) và Sida-CIEM (2006) đều nhận định rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần quan trọng vào hoạt động xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ, đóng góp cho ngân sách nhà nước, gia tăng tổng vốn đầu tư xã hội, tạo ra nhiều công ăn việc làm ...
Hai là, FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Hiện nay, 58,4% vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vực công nghiệp - xây dựng với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp - xây dựng của khu vực đầu tư nước ngoài đạt bình quân gần 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành. Đến nay, khu vực đầu tư nước ngoài đã tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng... Đầu tư nước ngoài đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, trong đó tập trung vào các dự án đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu, tạo nguồn cung ứng chất lượng và ổn định cho sản xuất.
Ba là, FDI tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu lao động.
Khu vực có vốn FDI hiện đang tạo ra nhiều lao động trực tiếp và gián tiếp. Các doanh nghiệp có vốn FDI cũng là các đơn vị dẫn đầu trong hoạt động đào tạo tại chỗ và ở nước ngoài, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý, đủ khả năng đảm nhiệm những vị trí quan trọng của doanh nghiệp.
Bốn là, FDI góp phần chuyển giao các công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới.
Từ năm 1993 đến nay, cả nước có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt/đăng ký, trong đó có 605 hợp đồng của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, chiếm 63,6%. Hoạt động đầu tư nước ngoài đã góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực công nghệ trong nhiều lĩnh vực.
Năm là, FDI góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm sản xuất tại Việt Nam.
Khu vực có vốn FDI đã và đang góp phần thúc đẩy cạnh tranh không chỉ trong khu vực nhà nước, mà là cả nền kinh tế của quốc gia thông qua việc gia tăng xuất khẩu, nâng cao trình độ và tay nghề người lao động, công nghệ sản xuất ở các dự án ...
Sáu là, FDI góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế.
FDI đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, như gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và Hiệp định đối tác kinh tế (EPA)....
Tóm lại, FDI góp phần quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam nói riêng và ở nhiều quốc gia đang phát triển khác trên thế giới nói chung. Bởi lẽ, hoạt động FDI không chỉ làm gia tăng kìm ngạch xuất khẩu, mà còn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội và là nguồn đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước.
Hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Bên cạnh những đóng góp nêu trên, FDI trong thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề hạn chế cần được giải quyết kịp thời, tránh không ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Các vấn đề này bao gồm:
Một là, hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa cao.
Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào các ngành sản xuất lắp ráp, may mặc ... đều có mức giá trị gia tăng thấp; ít đầu tư vào các dự án nông - lâm - ngư nghiệp là những ngành thế mạnh của Việt Nam. Trong khi, các tỉnh, thành phố lớn có đông dân và cơ sở hạ tầng đầy đủ ... thu hút được nhiều nguồn FDI, thì các vùng khác lại gặp nhiều khó khăn trong vấn đề thu hút FDI. Còn trong lĩnh vực dịch vụ, nhiều dự án có quy mô vốn đầu tư đăng ký rất lớn nhưng tiến độ giải ngân vốn và thực hiện dự án rất chậm, làm lãng phí đất đai và nguồn vốn vay trong nước.
Hai là, việc thu hút và tiến trình chuyển giao các công nghệ sản xuất tiên tiến trên thế giới từ các dự án FDI chưa đạt được mục tiêu đề ra.
Nguyên nhân chính là các dự án FDI đa phần đưa vào Việt Nam những máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu, lỗi thời hoặc gây ô nhiễm môi trường. Cho nên, các dự án này chủ yếu thực hiện việc gia công sản phẩm, nên có giá trị gia tăng thấp, khó tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu.
Ba là, đời sống người lao động chưa cao, tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng.
Tỷ lệ việc làm mới do khu vực FDI tạo ra không tương xứng (chỉ chiếm 3,4% trong tổng số lao động có việc làm năm 2011). Thu nhập bình quân theo tháng của người lao động ở khu vực doanh nghiệp FDI chưa tương xứng với giá trị sản phẩm tạo ra. Nhiều nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần còn chưa được quan tâm là nguyên nhân xảy ra nhiều cuộc đình công trong thời gian qua.
Bốn là, một số dự án FDI gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên.
Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước phát triển, song việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu tiền kiếm, dẫn đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng quy định về môi trường, gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ sinh thái khu vực. Một số dự án chiếm giữ đất lớn nhưng không triển khai, gây lãng phí tài nguyên.
Năm là, có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế.
Một số doanh nghiệp FDI có biểu hiện của việc chuyển giá như nâng khống giá trị góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản quyền), giá trị mua bán nguyên vật liệu đầu vào, ... tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách Nhà nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật Đầu tư năm 2005.
- Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
- Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách (CEPR), 2024. Báo cáo tổng quan những Nghiên cứu về môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Hà Nội: CEPR.
- Các dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử doanh nghiệp SMEs Việt
- Vai trò của bán hàng đa kênh đối với doanh nghiệp
- Doanh nghiệp Mỹ vay tiền từ Trung Quốc nhiều nhất thế giới
- Lợi ích và hạn chế của marketing theo thị trường ngách (niche marketing)
- Cảm Nhận và Đánh Giá Cá Nhân về cuốn sách "Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại"

