0236.3650403 (221)

TỔNG HỢP KINH TẾ VIỆT NAM 2014 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2015


Đỗ Văn Tính- Khoa QTKD

 

 

Tổng hợp kinh tế Việt nam 2014

Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp

Số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam cho thấy, lạm phát năm 2014 duy trì ở mức 1,84% - mức thấp nhất trong vòng hơn 10 năm trở lại (nếu tính bình quân 12 tháng là 4,09% và lạm phát cơ bản ở mức 3%).

Theo đánh giá của UBGSTCQG, lạm phát thấp trong năm 2014 xuất phát từ một số nguyên nhân như: giá hàng hóa và năng lượng thế giới giảm, góp phần cắt giảm chi phí đầu vào của sản xuất, giảm thiểu tác động đến lạm phát của yếu tố chi phí đẩy (mặt hàng xăng A92 giảm tổng cộng hơn 30% trong năm); tổng cầu thấp; tâm lý lạm phát của dân chúng ổn định nhờ lạm phát được kiểm soát trong 2 năm liên tiếp …

Dựa trên bảng IO 2007, UBGSTCQG ước tính mặt hàng xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu chiếm 14,6% chi phí trung gian của nền kinh tế, tương đương 8,8% tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế.

Cân đối ngân sách được cải thiện

Theo đánh giá của UBGSTCQG, cân đối ngân sách năm 2014  được cải thiện nhờ tăng thu, nhất là thu nội địa và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. Lũy kế đến ngày 15/12, tổng thu NSNN bằng 104% dự toán; tăng 11% so với cùng kỳ (cùng kỳ 2013 tăng 11,3%).

Trong đó, thu nội địa tăng 15,2% so cùng kỳ (cùng kỳ 2013 tăng 14,2%). Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng 16,5% so cùng kỳ (cùng kỳ 2013 tăng 11%). Thu từ khu vực sản xuất kinh doanh cải thiện so với cùng kỳ. Tính đến 15/12, thu từ khu vực sản xuất kinh doanh (chiếm 71% thu nội địa) tăng 18% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2013 tăng 15,7%).

Tăng trưởng phục hồi rõ nét

Tốc độ tăng trưởng GDP hàng quý (sau khi bỏ tính mùa vụ) duy trì xu hướng tăng kể từ quý 2/2014. So với năm 2013, khu vực công nghiệp và xây dựng có sự phục hồi mạnh mẽ, nhất là ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2014 tăng 7,6%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng khoảng 8,6%.

Các mức tăng trên đều cao hơn mức tăng của 2 năm trước. Bên cạnh đó, chỉ số PMI bình quân 11 tháng năm 2014 xấp xỉ 52 điểm; cao hơn mức bình quân năm 2013 là 49,7 điểm. Lượng điện tiêu thụ trong năm 2014 tăng 13,3% so với năm 2013, cao hơn mức tăng 7,4% của năm 2013. Nhập khẩu thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước …

Xuất khẩu tăng trưởng tốt

Tổng kim ngạch xuất khẩu 2014 ước đạt trên 150 tỷ USD; tăng 13,6% so với năm 2013. Trong đó, tốc độ tăng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước đạt 13%, cao hơn nhiều so với mức 3,5% năm 2013.

Xuất khẩu năm 2014 đánh dấu sự phục hồi của nhóm hàng nông sản với tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 30,8 tỷ USD; tăng 11,2% so với năm 2013 (năm 2013 tăng 0,7%). Theo tính toán của UBGSTCQG dựa trên 8 mặt hàng nông sản xuất khẩu thì tăng về lượng đóng góp khoảng 56% trong tăng kim ngạch xuất khẩu.

Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi do sự cải thiện về tiêu dùng và đầu tư tư nhân, UBGSTCQG cũng cho rằng, tăng trưởng trong năm 2014 vẫn phải đối mặt với những khó khăn như: kinh tế toàn cầu phục hồi chậm và không ít bất trắc; giá dầu giảm ảnh hưởng đến cân đối ngân sách và khả năng đáp ứng vốn cho đầu tư phát triển; giá hàng hóa thế giới giảm, trong khi tốc độ tăng xuất khẩu đang có xu hướng giảm nhanh, nhất là khu vực nước ngoài.

Kết quả là quy mô vốn của doanh nghiệp mới thành lập cao hơn năm ngoái và gần 15.500 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, mức sinh lời cũng phục hồi dần. Theo Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, sau thời gian dài suy giảm, ROA (tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản) và ROE (tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu) của các doanh nghiệp niêm yết 9  tháng đầu năm 2014 lần lượt là 3,8% và 9,4%, tăng tương ứng 0,5 và 1,1 điểm phần trăm so với cùng kì 2013. Tuy vậy, vẫn còn đó những vết gợn trên bức tranh kinh tế năm 2014. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động vẫn lớn, ở mức 67.800 đơn vị. Là một nền kinh tế có độ mở lớn, song Việt Nam vẫn chưa thoát lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Năm 2014, nhập siêu từ nước láng giềng phương Bắc này lên gần 29 tỷ USD, cao hơn mức 23,7 tỷ USD năm 2013.

Con số xuất siêu cũng chủ yếu đến từ khu vực doanh nghiệp nước ngoài, trong khi khu vực trong nước chủ yếu xuất hàng thô, hàng mới qua sơ chế và hàng gia công. Công nghiệp phụ trợ cũng chậm phát triển. Mặc dù cán cân thương mại thặng dư 2 tỷ USD, song cán cân dịch vụ lại thâm hụt. Việt Nam sẽ gặp thách thức lớn khi nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất, dệt may từ Trung Quốc vẫn còn lớn và cần phải có thời gian mới có thể nội địa hóa, tận dụng các cơ hội từ tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Câu chuyện năng suất lao động cũng thực sự giáng vào môi trường đầu tư kinh doanh. Hiện nay, năng suất lao động trong nước chỉ bằng một phần mười tám Singapore, một phần sáu Malaysia và một phần ba Thái Lan, Trung Quốc. Lao động khu vực nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp, máy móc, quy trình công nghệ lạc hậu, quản trị yếu kém... là nguyên nhân tạo nên sự thua kém trên.

Đặc biệt, giá dầu thế giới giảm nhanh và diễn biến khó lường trong bốn tháng cuối năm là điều làm bận lòng nhà điều hành năm nay và cả năm sau. Giá xăng dầu giảm sẽ làm hạ giá thành trong nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nhưng mặt khác, một quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn thứ hai trong khu vực Đông Á như Việt Nam không tránh khỏi bị liên lụy như các nước xuất khẩu khác trên thế giới.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, xuất khẩu dầu thô năm 2014 đạt gần 9,2 triệu tấn, trị giá gần 7,2 tỷ USD, tuy tăng 9% về lượng những lại giảm 0,7% về giá trị. Các Bộ, cơ quan nghiên cứu đều đưa ra kịch bản ngân sách sẽ bị tác động hàng chục nghìn tỷ đồng khi giá dầu giảm (mỗi USD giá dầu giảm so với mốc dự toán 100 USD một thùng sẽ làm ngân sách hụt thu 1.000 tỷ đồng), bởi nguồn thu này đang chiếm tỷ trọng khoảng 10% trong cân đối.

Dưới những tin tức tiêu cực từ thị trường dầu mỏ và việc Mỹ cắt giảm gói nới lỏng định lượng QE3, thị trường chứng khoán Việt Nam sau cú hồi phục vào tháng 8 đã lại lao dốc, có lúc về sát ngưỡng 510 điểm, gần bằng ngưỡng "vạch đỏ" hồi tháng 5. Nhà đầu tư ngoại cũng liên tục rút vốn khỏi thị trường, chỉ từ tháng 6, tổng giá trị bán ròng trên sàn TP HCM lên tới hơn 3.000 tỷ đồng, lạm một nửa mức mua ròng nửa đầu năm. Do đó, nếu như câu chuyện nửa cuối năm nay là biến số Biển Đông, thì trong năm tới, giá dầu thô có thể là chủ đề được nhắc tới nhiều nhất, chừng nào hàng hóa này vẫn còn diễn biến khó lường như hiện nay.

Khép lại năm 2014 với cả những nốt thăng và trầm, Việt Nam bước sang năm 2015 với mục tiêu cao hơn, tập trung cho tăng trưởng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết năm tới mục tiêu tăng trưởng sẽ là 6,2%, lạm phát được kiểm soát ở 5% để tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Ủy ban Giám sát tài chính nhận định mục tiêu tăng trưởng này hoàn toàn khả thi, thậm chí quý đầu năm sau đã có thể tăng 5,4%, cao hơn mức tăng cùng kỳ năm 2014 khi tổng cầu sẽ hồi phục, những chính sách hỗ trợ về thủ tục hành chính, cắt giảm lãi suất... tạo dựng niềm tin cho doanh nghiệp.Bên cạnh đó, năm 2015 cũng được nhìn nhận là năm nổi bật của quá trình hội nhập khi các Hiệp định thương mại tự do lớn được ký kết, trong đó triển vọng cao là Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tuy nhiên, nhà điều hành vẫn phải lưu ý tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, tạo động lực cho kinh tế bứt phá, hoàn thành mục tiêu kế hoạch 5 năm giai đoạn 2011 - 2015. Trong đó, tập trung cải cách thủ tục hành chính, về giảm số giờ nộp thuế, thông quan..., hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận nguồn tín dụng. Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, nhất là tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, thị trường tài chính, có biện pháp nâng cao năng suất lao động.

Tóm lại, kinh tế vĩ mô ổn định tốt hơn, lạm phát giảm, đến tháng 8 CPI mới ở mức 1,84% so với tháng 12/2014. Dự báo cả năm 2014, CPI khó vượt quá 4,5% so với tháng 12/2013. Nền kinh tế đã thoát đáy và đang vật vã để đi lên nhưng tổng cầu vẫn yếu, nợ xấu không được giải quyết hiệu quả và đang có xu hướng tăng lên, tín dụng không đến được với nền kinh tế; tốc độ phục hồi chậm.

Khu vực doanh nghiệp vẫn rất khó khăn, chỉ số quản trị mua hàng theo HSBC, tuy vẫn ở mức trên 50 điểm % nhưng đã sụt giảm 4 tháng liên tục. Điều đáng lưu ý là khu vực tư nhân Việt Nam ngày càng yếu đi, tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này 8 tháng năm 2014 chỉ còn chiếm 32,7% trong tổng kim ngạch của cả nước, trong khi kim ngạch xuất khẩu của khối FDI đã lên tới 67,3%. Hệ thống phân phối cũng đang bị các nhà đầu tư nước ngoài xâm lấn, FDI cũng đã chiếm tỷ trọng gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Tình hình này là tốt hay xấu và liệu tăng trưởng kinh tế có đi liền với tích lũy và tăng cường nội lực, gia tăng sức mạnh của DN trong nước? Đây là một câu hỏi cần được đặt ra một cách nghiêm túc. 

Về tốc độ tăng trưởng: Khó đạt mức tăng trưởng 5,8% như chỉ tiêu. Nếu muốn đạt, phải tăng thêm khai thác dầu thô, khai thác than…(như đã từng làm)  nhưng đây là cách tăng trưởng không hiệu quả. Vấn đề không chỉ là tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là cách thức tạo ra tăng trưởng. Nếu giải quyết được nợ xấu, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện khuyến khích đầu tư tư nhân, thì có thể tiếp cận đến chỉ tiêu này và tạo đà cho năm 2014 và tạo đà cho năm 2015. (Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, nếu cải cách thủ tục hải quan, môi năm có thể tiết kiệm cho nền kinh tế đến 20 tỷ USD)

Về lạm phát: Lạm phát sẽ không vượt quá 4,5% do tổng cầu thấp và giá thị trường thế giới theo dự báo không có biến động lớn. Xuất khẩu có khả năng vượt kế hoạch. Các chỉ khác như thu chi ngân sách, mức bội dự báo đạt kế hoạch.

Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2015:

Theo IMF kinh tế thế giới năm 2015 phục hồi mạnh hơn, tăng trưởng toàn cầu được dự báo là 4% tăng 0,6 điểm % so với dự báo tăng trưởng năm 2014. (cao hơn khá nhiều mức tăng trưởng của năm 2013 so với 2012).

Mặc dù vậy, tình hình vẫn còn nhiều bất định: khủng hoảng Ucraina, kèm theo sự cấm vận của phương Tây với Nga, khủng hoảng và cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo IS ở Trung Đông... sẽ tác động đến kinh tế toàn cầu

Kinh tế Việt Nam năm 2015 có mức phục hồi cao hơn và có khả năng đạt mức tăng trưởng từ 6%-6,2%. Lý do: yêu cầu cải thiện môi trường kinh doanh đang được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt và sẽ có chuyển biến trên hầu hết các tiêu chí trong nửa đầu năm 2015. Nhiều khả năng hầu hết các Hiệp định mậu dịch tư do ta đang đàm phán sẽ được hoàn thành không muộn hơn 6 tháng đầu năm 2015. Điều này sẽ tạo điều kiện thu hút đầu tư và mở rộng thị trường xuất khẩu, qua đó thúc đẩy tăng trưởng.

Lạm phát: Dự báo không quá 6,5% nếu Ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chính sách trung hòa tiền tệ (ngoại tệ vào Việt Nam sẽ tăng, lượng tiền VND để mua ngoại tệ sẽ  lớn (gần giống như năm 2007) cần phải có giải pháp rút tiền VND về...).

Nguy cơ và các rủi ro có thể:

- Nợ công tăng, đe doạ khả năng trả nợ và an toàn tài chính. Nếu tăng trưởng thấp và do đó thu ngân sách tăng chậm, nguồn trả nợ sẽ khó khăn. Cần kiểm soát chặt chỉ tiêu này.

- Thiếu quyết tâm chính trị, vướng bận Đại hội Đảng các cấp, làm trì trệ công việc.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Tạp chí tài chính.
  2. Tổng cục thống kê.
  3. Cổng thông tin điện tử Chính Phủ Việt Nam.
  4. http://vi.wikipedia.org/
  5. Tạp chí đầu tư.
  6. Tạp chí kinh tế và dự báo.
Files đính kèm