TÌNH HÌNH CÁN CÂN CÂN NGÂN SÁCH VIỆT NAM 2019
Đỗ Văn Tính
Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách Nhà nước đã được thể hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước chưa đúng cách, đúng lúc, sự yếu kém trong việc quản lí thu chi ngân sách đã đặt ra cho chúng ta cần có cái nhìn sâu hơn về tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước đến các hoat động kinh tế - xã hội là hết sức rộng lớn.
Trong hệ thống tài chính, ngân sách nhà nước (NSNN) là bộ phận chủ đạo, là điều kiện vất chất quan tọng để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ của mình. Mặt khác, nó còn là công cụ quan trọng để Nhà nước thự hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội.
Dưới góc độ hình thức: NSNN là một bản dự toán thu và chi tài chính hằng năm của nhà nước do Chính phủ lập ra, để trình Quốc hội quyết định và giao cho chính phủ thực hiện
Dưới góc độ thực thể: NSNN bao gồm các nguồn thu cụ thể, những khoản chi cụ thể và được định lượng. Các nguồn thu đều được nộp vào một quỹ tiền tệ và các khoản thu chi đều được xuất ra từ quỹ tiền tệ ấy.
Khái quát về điều kiện tự nhiên – xã hội:
Điều kiện tự nhiên
Dân số
Kết quả Tổng điều tra dân số lần thứ 5 tại Việt Nam ( tính đến 0 giờ ngày 1/4/2019) tổng dân số của Việt Nam đạt 96.208.984 người. Với kết quả này, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia và Philipines).
Trong tổng số hơn 96,2 triệu dân, có 47,88 triệu người (chiếm 49,8%) là nam giới và 48,32 triệu người (chiếm 50,2%) là nữ giới.
Kết quả tổng điều tra 2019 cũng cho thấy, Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số cao so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Năm 2019, mật độ dân số của Việt Nam là 290 người/km2. TP.Hà Nội và TP.HCM là hai địa phương có mật độ dân số cao nhất cả nước, tương ứng là 2.398 người/km2 và 4.363 người/km2.
Phân bổ dân cư giữa các vùng kinh tế - xã hội có sự khác biệt đáng kể. Vùng Đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung dân cư lớn nhất của cả nước với 22,5 triệu người, chiếm gần 23,4%; tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với 20,2 triệu người, chiếm 21%. Tây Nguyên là nơi có ít dân cư sinh sống nhất với tổng dân số là 5,8 triệu người, chiếm 6,1% dân số cả nước.
Về cơ cấu dân tộc, hiện toàn quốc có hơn 82 triệu người dân tộc Kinh, chiếm 85,3% và hơn 14,1 triệu người dân tộc khác, chiếm 14,7% tổng dân số của cả nước.
Thị trường lao động và việc làm
Thị trường lao động
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính là 55,4 triệu người (quý I năm 2019).
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính là 48,8 triệu người. Lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 16,9 triệu người, chiếm 34,7%; lực lượng lao động nữ trong độ tuổi lao động đạt 22,3 triệu người, chiếm 45,6% tổng số lao động trong độ tuổi của cả nước.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ước tính là 76,6. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ là 71,1%, thấp hơn 11,3 % so với lực lượng lao động nam (82,4%). Mức độ tham gia lực lượng lao động của dân cư khu vực thành thị và nông thôn vẫn còn khác biệt đáng kể thành thị: 68,7%; nông thôn: 81,2%; ở các nhóm tuổi, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở khu vực thành thị đều thấp hơn nông thôn, trong đó chênh lệch nhiều nhất ở nhóm 15-24 tuổi và nhóm từ 50 tuổi trở lên.
Nhận xét: Người dân tại khu vực nông thôn gia nhập thị trường lao động sớm hơn và rời bỏ thị trường này muộn hơn khá nhiều so với khu vực thành thị; đây là đặc điểm điển hình của thị trường lao động.
Cơ cấu lao động trong các ngành đang có sự chuyển dịch từ khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản sang khu vực Công nghiệp và Xây dựng và Dịch vụ. Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong khu vực khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản ước tính là 19,2 triệu người, chiếm 35,4%; khu vực Công nghiệp và xây dựng là 15,6 triệu người, chiếm 28,6%; khu vực Dịch vụ là 19,5 triệu người, chiếm 36,0%.
Việc làm:
Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm ước tính là 54,3 triệu người. Trong đó, lao động có việc làm ở khu vực thành thị chiếm 33,01% và lao động nữ có việc làm chiếm 47,7% trong tổng số người có việc làm. Xu hướng lao động có việc làm tăng rõ ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài nhà nước.
Lao động có việc làm đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp nghề” trở lên ước tính là 12,1 triệu người, chiếm 22,2% số lao động có việc làm của toàn quốc. Tuy nhiên, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước gần 1,1 triệu người.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước là 2,17%. Số thanh niên (người từ 15 đến 24 tuổi) thất nghiệp ước khoảng 448,5 nghìn người, chiếm 40,4% tổng số người thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 10,49%.
Nhận xét: Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên từ 15 đến 24 tuổi cao hơn so với tỷ lệ thất nghiệp chung do lực lượng lao động thanh niên khi tham gia vào thị trường lao động thường có xu hướng chủ động tìm kiếm các việc làm phù hợp với năng lực và điều kiện riêng của mình hơn so với nhóm dân số khác. Những người chưa có việc làm và đang tìm kiếm việc làm trong thời gian tham chiếu được coi là người thất nghiệp. Điều này khiến tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm thanh niên cao hơn mức trung bình. Đây là tình hình chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Điều kiện xã hội
Văn hóa:
Việt Nam có 54 dân tộc. Nhóm đông dân nhất là người Kinh sống chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng với nền văn minh sông Hồng nổi tiếng. Các nhóm dân tộc khác nằm rải rác trên các khu vực núi. Mỗi nhóm có niềm tin, ẩm thực và đặc biệt riêng.
Văn hóa của người Chăm là một trong những nền văn hóa sớm nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất chấp sự khác biệt về văn hóa, 54 dân tộc luôn sống yên bình, không có sự phân biệt và cùng đoàn kết, phát triển.
Sự đa dạng trong khu vực cũng tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của Việt Nam. Dải đất hình chữ S được chia thành 3 vùng miền: miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Miền Bắc Việt Nam, được gọi là Bắc Bộ trong tiếng Việt là cái nôi của nền văn minh Việt Nam. Miền Trung chủ yếu là núi và bờ biển. Văn hóa ở miền Trung bị ảnh hưởng bởi dãy núi Trường Sơn và bờ biển. Miền Nam có đồng bằng sông Cửu Long. Đây là khu vực sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam.
Việt Nam có nền văn hóa ẩm thực đặc sắc, đa dạng mang đặc trưng riêng. Việt Nam còn là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân, lớn nhất là tết Nguyên đán.
Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm mới...), các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe...). Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hoá (hội chùa). Lễ hội có 2 phần: phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn, phần hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian.
Tôn giáo và tín ngưỡng:
Tôn giáo:
Tôn giáo ở Việt Nam khá đa dạng. Đến thời điểm Tổng điều tra năm 2019, có 16 tôn giáo được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Tổng số có 13,2 triệu người theo tôn giáo, chiếm 13,7% tổng dân số cả nước. Trong đó, số người theo “Công giáo” là đông nhất với 5,9 triệu người, chiếm 44,6% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1% tổng dân số cả nước. Tiếp đến là số người theo “Phật giáo” với 4,6 triệu người, chiếm 35,0% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 4,8% dân số cả nước. Các tôn giáo còn lại chiếm tỷ trọng nhỏ.
Tín ngưỡng:
Thờ cúng tổ tiên là nét đẹp trong giá trị văn hóa Việt Nam. Tất cả người Việt không bao giờ quên nguồn gốc của họ. Hầu hết trong số họ có một bàn thờ tổ tiên tại nhà hoặc doanh nghiệp của họ. Trong những ngày đặc biệt như Tết, ngày đầu tiên hoặc ngày thứ năm trong tháng (theo Âm lịch), người Việt Nam thường đốt nhang và có một số thứ như hoa quả làm lễ vật. Thờ cúng tổ tiên đã tồn tại ở Việt Nam từ lâu. Đến nay, người dân Việt Nam vẫn duy trì việc thờ cúng để thể hiện sự tôn trọng với người đã khuất.
Ngoài ra, người Việt còn có một số tín ngưỡng như: Giỗ tổ Hùng Vương, Thờ tổ nghề, Thờ thành hoàng, Tiền hiền,…
Khái quát điều kiện kinh tế
Thu nhập quốc gia.
Thu nhập quốc gia là chỉ tiêu phản ánh kết quả thu nhập lần đầu được tạo ra từ các yếu tố sở hữu của một quốc gia tham gia vào hoạt động sản xuất trên lãnh thổ quốc gia đó hay ở nước ngoài trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tổng thu nhập quốc gia (GNI) là chỉ tiêu cân đối của tài khoản phân phối thu nhập lần đầu. Do vậy, để tính chỉ tiêu này cần phải lập các tài khoản sản xuất và tài khoản tạo thành thu nhập hoặc phải xuất phát từ chỉ tiêu GDP và các chỉ tiêu có liên quan.
Theo giá hiện hành:
Thu nhập quốc gia (GNI) = |
= |
|
GDP |
+ |
Chênh lệch giữa thu nhập của người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về và thu nhập của người nước ngoài ở Việt Nam gửi ra |
+ |
Chênh lệch giữa thu nhập sở hữu nhận được từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả cho nước ngoài |
Trong đó:
Chênh lệch (thuần) giữa thu nhập và chi trả về thu nhập lao động với nước ngoài là phần còn lại giữa các khoản thu nhập về tiền lương và tiền công lao động (bằng tiền hay hiện vật) và các khoản thu nhập khác mang tính chất trả công lao động cho công nhân và người lao động Việt Nam thường trú ở nước ngoài nhận được từ các tổ chức, đơn vị dân cư sản xuất không thường trú (nước ngoài) - (trừ đi) phần chi về thù lao lao động của các tổ chức, đơn vị dân cư sản xuất thường trú của Việt Nam chi trả cho công nhân và người lao động nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
Chênh lệch giữa thu nhập sở hữu nhận được từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả cho nước ngoài là phần còn lại của thu nhập sở hữu do đơn vị và dân cư thường trú Việt Nam nhận được từ nước ngoài (từ đơn vị và dân cư không thường trú) - (trừ đi) thu nhập sở hữu của đơn vị và dân cư không thường trú Việt Nam.
Thu nhập hay chi trả sở hữu gồm các khoản sau:
Thu nhập hoặc chi trả về lợi tức đầu tư trực tiếp với nước ngoài;
Thu nhập hoặc chi trả lợi tức đầu tư vào giấy tờ có giá như: cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các loại giấy tờ có giá và công cụ tài chính khác
Thu nhập hoặc chi trả lợi tức về cho thuê, mướn, quyền sử dụng, bản quyền sáng chế, nhãn mác, quyền khai thác khoáng sản phục vụ cho quá trình sản xuất, cho thuê đất đai, vùng trời, vùng biển, tô giới ...
Theo giá so sánh:
Thu nhập quốc gia (GNI) theo giá so = Sánh |
Thu nhập quốc gia (GNI) theo giá hiện hành năm báo cáo |
Chỉ số giảm phát GDP của năm báo cáo so với năm gốc so sánh |
GDP bình quân đầu người.
GDP bình quân đầu người của một quốc gia hay lãnh thổ tại một thời điểm nhất định là giá trị nhận được khi lấy GDP của quốc gia hay lãnh thổ này tại thời điểm đó chia cho dân số của nó cũng tại thời điểm đó.
Tầm quan trọng của GDP bình quân trên đầu người.
GDP/người là một trong những chỉ tiêu thống kê kinh tế tổng hợp quan trọng phản ánh kết quả sản xuất tính bình quân đầu người trong một năm. GDP/người còn là chỉ tiêu được dùng để đánh giá sự phát triển kinh tế theo thời gian và so sánh quốc tế.
GDP/người của Việt Nam.
Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp.
Từ 2002 đến 2018, hơn 45 triệu người đã thoát nghèo, tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). GDP đầu người tăng 2,5 lần, đạt trên 2.500 USD năm 2018.
Sau khi chạm đỉnh ở mốc 7,1% năm 2018, tăng trưởng GDP thực được dự báo giảm nhẹ trong năm 2019, do sức cầu bên ngoài giảm và do duy trì thắt chặt chính sách tín dụng và tài khóa. Tăng trưởng GDP thực được dự báo vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, xoay quanh mức 6,5% trong các năm 2020 và 2021. Tỉ lệ lạm phát vẫn tiếp tục ổn định ở mức một con số trong vòng bảy năm liên tiếp, thấp hơn hoặc tiệm cận mức 4% trong những năm gần đây. Cán cân đối ngoại vẫn trong vòng kiểm soát và tiếp tục được hỗ trợ bằng nguồn vốn FDI dồi dào lên tới gần 18 tỉ USD trong năm 2019, chiếm gần 24% tổng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Hoạt động xuất – nhập khẩu của Việt Nam
Khái niệm xuất nhập khẩu.
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. xuất nhập khẩu là hoạt động dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không dễ dàng khống chế được.
Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn,đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới cửa khẩu, cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương.
Hoạt động xuất nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất nhập khẩu, thương nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ,kỹ lưỡng đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau,tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất, tiêu dùng trong nước.
Đặc điểm của xuất – nhập khẩu.
Xuất-nhập khẩu là hai hoạt động cơ bản cấu thành nên hoạt động ngoại thương. Xuất-nhập khẩu là hoạt động buôn bán diễn ra trên phạm vi ngoài quốc gia. Hoạt động xuất-nhập khẩu phức tạp hơn rất nhiều so với kinh doanh trong nước. Điều này được thể hiện ở chỗ:
Thị trường rộng lớn, khó kiểm soát. Chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp… của các quốc gia khác nhau. Thanh toán bằng đồng tiền ngoại tệ, hàng hoá được vận chuyển qua biên giới quốc gia, phải tuân theo những tập quán buôn bán quốc tế.
Xuất-nhập khẩu là hoạt động lưu thông hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia, nó rất phong phú và đa dạng, thường xuyên bị chi phối bởi các yếu tố như chính sách, luật pháp, văn hoá, chính trị, ….của các quốc gia khác nhau. Nhà nước quản lý hoạt động xuất-nhập khẩu thông qua các công cụ chính sách như: Chính sách thuế, hạn ngạch, các văn bản pháp luật khác, qui định các mặt hàng xuất-nhập khẩu,…
Vai trò của nhập khẩu.
Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước
Bổ xung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế , đảm bảo một sự phát triển cân đối ổn định.khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế. Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất tạo việc làm ổn định cho người lao động góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu ,tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế đặc biệt là nước nhập khẩu.
Có thể thấy rằng vai trò của nhập khẩu là hết sức quan trọng đặc biệt là đối với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) trong việc cải thiện đời sống kinh tế,thay đổi một số lĩnh vực ,nhờ có nhập khẩu mà tiếp thu được những kinh nghiệm quản lí ,công nghệ hiện đại …thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Vai trò của xuất khẩu.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến thế giời từ bên ngoài. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước.
Tăng Trưởng Kinh Tế.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2019 ước tính tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 6,82% của quý I và 6,73% của quý II năm nay, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,53%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,05% và khu vực dịch vụ tăng 7,11%. Tăng trưởng của quý III năm nay tuy thấp hơn mức tăng 7,38% của quý III/2017 nhưng cao hơn mức tăng của quý III các năm 2012-2018. Trên góc độ sử dụng GDP quý III/2019, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,46% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 8,44%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,36%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 10,19%. Tính chung 9 tháng năm 2019, GDP ước tính tăng 6,98% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong 9 năm trở lại đây
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng đạt mức tăng trưởng thấp do hạn hán, biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng cây trồng, ngành chăn nuôi thiệt hại nặng nề bởi dịch tả lợn châu Phi, nông sản gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ và giá xuất khẩu. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 0,74%, chỉ cao hơn mức tăng 0,02% của cùng kỳ năm 2016 trong giai đoạn 2012-2019, đóng góp 0,09 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp 9 tháng duy trì mức tăng trưởng khá 9,56%, đóng góp 3,16 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng của khu vực này, là động lực chính của tăng trưởng toàn nền kinh tế với mức tăng cao 11,37%, đóng góp 2,42 điểm phần trăm. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 2,68%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm. Ngành xây dựng 9 tháng duy trì mức tăng trưởng khá với tốc độ 8,33%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm.
Nông nghiệp
Vụ lúa đông xuân năm nay mặc dù diện tích gieo trồng tăng nhưng do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng kéo dài trong giai đoạn lúa sinh trưởng dẫn đến năng suất và sản lượng toàn vụ giảm.
Theo báo cáo của các địa phương, diện tích gieo cấy lúa đông xuân cả nước đạt 3.123,9 nghìn ha, tăng 21,8 nghìn ha so với vụ đông xuân trước; năng suất đạt 65,5 tạ/ha, giảm 0,9 tạ/ha, sản lượng toàn vụ đạt 20,5 triệu tấn, giảm 133,1 nghìn tấn.
Tính đến trung tuần tháng Chín, diện tích gieo cấy lúa mùa cả nước đạt 1.558,1 nghìn ha, bằng 96,5% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.075,9 nghìn ha, bằng 97,4%, các địa phương phía Nam đạt 482,2 nghìn ha, bằng 94,5%. Diện tích gieo cấy lúa mùa miền Bắc năm nay đạt thấp, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng đạt 497 nghìn ha, giảm 19,6 nghìn ha so với vụ mùa năm trước. Trung du và miền núi phía Bắc đạt 421,5 nghìn ha, giảm 2,6 nghìn ha; Bắc Trung Bộ đạt 157,4 nghìn ha, giảm 6,3 nghìn ha. Nguyên nhân chủ yếu do các địa phương chuyển một phần diện tích trồng lúa sang sử dụng cho mục đích khác.
Một số địa phương có diện tích lúa mùa giảm nhiều: Hà Nội giảm 5,4 nghìn ha, Thanh Hóa giảm 5,2 nghìn ha, Hải Phòng giảm 2,8 nghìn ha, Phú Thọ giảm 2,3 nghìn ha. Đến nay trà lúa mùa sớm ở miền Bắc đang trong giai đoạn chắc hạt và chín, đã thu hoạch được 176,5 nghìn ha, bằng 117,2% cùng kỳ năm 2018; năng suất ước tính đạt 50,2 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha .Vụ lúa hè thu năm nay cả nước gieo cấy được 2.009,3 nghìn ha, giảm 43,7 nghìn ha so với vụ hè thu năm trước do các địa phương chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và chuyển đổi mùa vụ, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.569,1 nghìn ha, giảm 35,4 nghìn ha. Tính đến ngày 15/9/2019, các địa phương đã thu hoạch được 1.859 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 92,5% diện tích gieo cấy và bằng 98% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1.431,9 nghìn ha, chiếm 91,3% và bằng 98,4%. Theo báo cáo của các địa phương, năng suất lúa hè thu cả nước năm nay ước tính đạt 54,8 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha so với vụ hè thu năm 2018, nhưng do diện tích gieo cấy giảm nên sản lượng chung toàn vụ hè thu 2019 ước tính đạt 11 triệu tấn, giảm 197 nghìn tấn, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 8,7 triệu tấn, giảm 96,6 nghìn tấn.
Một số địa phương có diện tích gieo cấy lúa hè thu giảm nhiều: Kiên Giang giảm 14,4 nghìn ha, Tiền Giang giảm 11,9 nghìn ha, Bình Thuận giảm 4,7 nghìn ha, Đồng Tháp giảm 2,3 nghìn ha. Đàn trâu cả nước trong tháng Chín tiếp tục giảm 2,8% so với cùng thời điểm năm 2018 do hiệu quả kinh tế không cao và diện tích chăn thả bị thu hẹp. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 9 tháng ước tính đạt 70,5 nghìn tấn, tăng 3,1% (quý III đạt 19,3 nghìn tấn, tăng 3,4%). Đàn bò phát triển khá với mức tăng trong tháng đạt 2,4% do thuận lợi về giá cả và thị trường tiêu thụ, người chăn nuôi có lãi ổn định, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng 9 tháng đạt 264,9 nghìn tấn, tăng 4,2% (quý III đạt 72,4 nghìn tấn, tăng 5,3%), sản lượng sữa bò 9 tháng đạt 768,7 nghìn tấn, tăng 9,3% (quý III đạt 260,4 nghìn tấn, tăng 11,6%). Chăn nuôi gia cầm phát triển tốt do có thị trường tiêu thụ, không có dịch bệnh lớn xảy ra, người chăn nuôi yên tâm mở rộng quy mô đàn, đặc biệt khi dịch bệnh ở lợn diễn biến phức tạp, nhu cầu tiêu thụ thịt và trứng gia cầm tăng mạnh do người dân chuyển sang sử dụng thay thế thịt lợn. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước trong tháng Chín tăng 10,5% so với cùng thời điểm năm 2018; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 9 tháng ước tính đạt 931,4 nghìn tấn, tăng 13,5% (quý III đạt 253 nghìn tấn, tăng 19,2%); sản lượng trứng gia cầm 9 tháng đạt 9,2 tỷ quả, tăng 10% (quý III đạt 2,4 tỷ quả, tăng 11,5%). Hiện nay, thời tiết đang ở thời điểm giao mùa, mưa nhiều, độ ẩm cao là môi trường thuận lợi để các chủng vi rút tồn tại, phát sinh, người chăn nuôi cần sử dụng các biện pháp để vệ sinh chuồng trại và tăng sức đề kháng cho đàn gia cầm, xử lý nhanh chóng khi phát sinh dịch bệnh, tránh nguy cơ lây lan, đề phòng dịch cúm gia cầm quay trở lại. Chăn nuôi lợn vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn do dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp trên phạm vi cả nước. Đàn lợn cả nước tính đến tháng 9/2019 giảm 19% so với cùng thời điểm năm 2018; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 9 tháng ước tính đạt 2,5 triệu tấn, giảm 9% (quý III đạt 709,3 nghìn tấn, giảm 17%), trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng chịu thiệt hại lớn nhất, ước tính tổng đàn lợn của vùng tháng Chín giảm 38,3% so với cùng thời điểm năm 2018. Tính đến thời điểm 17/9/2019, cả nước không còn dịch lở mồm long móng và dịch tai xanh trên lợn; dịch cúm gia cầm còn ở Bến Tre; dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra tại 7.612 xã, 642 huyện của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Công Nghiệp.
Ngành công nghiệp 9 tháng năm 2019 tăng trưởng khá với tốc độ tăng giá trị tăng thêm so với cùng kỳ năm trước đạt 9,56%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế (tăng 11,37%); sản xuất và phân phối điện bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân; khai khoáng bước đầu có mức tăng nhẹ 2,68% sau nhiều năm liên tiếp giảm nhờ khai thác than tăng cao, bù đắp cho sự sụt giảm của khai thác dầu thô. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2019 ước tính tăng 9,56% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 9%, quý II tăng 9,24%, quý III tăng 10,29%), là mức tăng cao nhất trong 4 năm trở lại đây. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là điểm sáng của toàn ngành với mức tăng 11,37% (quý I tăng 11,52%; quý II tăng 10,9%; quý III tăng 11,68%), đóng góp 2,42 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,7%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm, ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,43%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm, ngành khai khoáng tăng 2,68% sau 3 năm giảm liên tục[9] do khai thác dầu thô có mức giảm thấp hơn cùng kỳ năm trước và khai thác than, quặng kim loại đều tăng cao, đóng góp 0,17 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2019 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 38,3%, sản xuất kim loại tăng 36,7% nhờ sự đóng góp tích cực của Tập đoàn Formosa Hà Tĩnh, khai thác quặng kim loại tăng 21,2%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 15%, khai thác than cứng và than non tăng 12,4%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 12%, in, sao chép bản ghi các loại tăng 11,8% và sản xuất đồ uống tăng 11%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học tăng 6,3%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 14,2% của cùng kỳ năm trước, sản xuất thuốc lá tăng 4%, khai khoáng khác (đá, cát, sỏi…) và hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ, quặng cùng tăng 2,5%, sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 1,3%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 9 tháng năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sắt, thép thô tăng 49,1%; xăng, dầu tăng 40,3%, ti vi tăng 19,3%, thép thanh, thép góc tăng 14,4%, thức ăn cho thủy sản tăng 14%, vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 12,8%, sơn hóa học tăng 12,6%, than sạch và điện thoại di động cùng tăng 12,2% (điện thoại thông minh tăng 16,9%), khí hóa lỏng LPG tăng 11,4%; bia tăng 11%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ: Khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 1,9%, sữa bột tăng 1,1%, thức ăn cho gia súc tăng 0,1%, phân u rê giảm 0,2%, phân hỗn hợp NPK giảm 0,5%, dầu thô khai thác giảm 7%, xe máy giảm 9,4%, linh kiện điện thoại giảm 11,1%, đường kính giảm 15,8%. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2019 tăng 3,9% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/9/2019 tăng 1,2% so cùng thời điểm tháng trước và tăng 2,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 1,2%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 3,3%.
Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 1,5% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 2,4%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,7%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,4%.
Lâm Nghiệp.
Sản xuất lâm nghiệp 9 tháng năm 2019 nhìn chung phát triển ổn định. Hiện nay, các tỉnh phía Bắc đang tập trung trồng rừng cuối vụ, các tỉnh phía Nam bước vào giai đoạn trồng rừng chính vụ. Bên cạnh đó, người dân tập trung cho công tác chăm sóc, bảo vệ rừng và đẩy nhanh tiến độ khai thác gỗ từ diện tích rừng đến kỳ khai thác. Trong quý III/2019, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 66,5 nghìn ha, giảm 4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 26,3 triệu cây, giảm 2,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4.393 nghìn m3, tăng 4,8%; sản lượng củi khai thác đạt 4,8 triệu ste, giảm 0,8%.
Tính chung 9 tháng, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 176,5 nghìn ha, giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước. số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 60,7 triệu cây, giảm 2,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 11.413 nghìn m3, tăng 4,5% do nhu cầu gỗ nguyên liệu tiêu thụ trong nước ngày càng tăng, giá thu mua gỗ ổn định. Sản lượng củi khai thác đạt 14 triệu ste, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2018. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Quảng Ngãi đạt 1.047 nghìn m3, tăng 11,1%; Quảng Nam đạt 1.039 nghìn m3, tăng 11,2%; Nghệ An đạt 814,7 nghìn m3, tăng 14,5%; Bình Định đạt 695 nghìn m3, tăng 10,9%; Bắc Giang đạt 469,1 nghìn m3, tăng 7,5%. Diện tích rừng bị thiệt hại quý III/2019 là 2.374,3 ha, gấp 5,4 lần cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 2.239,7 ha, gấp 7,6 lần; diện tích rừng bị chặt, phá là 134,6 ha, giảm 4,2%. Tính chung 9 tháng năm nay, diện tích rừng bị thiệt hại là 3.059,7 ha, gấp 3,2 lần cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 2.641,7 ha, gấp gần 5 lần; diện tích rừng bị chặt, phá là 418 ha, giảm 2,5%.
THỰC TRẠNG VÀ TÌNH HÌNH CÁN CÂN NGÂN SÁCH CỦA VN
Bên cạnh những kết quả đạt được trong cơ cấu NSNN, thực tế cho thấy, vấn đề cơ cấu NSNN vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Cơ cấu NSNN thời gian qua là một trong những yếu tố dẫn tới hạn chế về năng lực cạnh tranh quốc gia.
Báo cáo thường niên về năng lực cạnh tranh toàn cầu (2017 - 2018) được công bố tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) , mặc dù vị thế của Việt Nam đã có nhiều cải thiện, nhưng so về mức độ và thứ hạng cải thiện thì Việt Nam chỉ trên Lào, Campuchia và Philippines. Môi trường kinh doanh của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chủ yếu là: Tiếp cận tài chính; Chất lượng nguồn nhân lực, vấn đề tham nhũng, đạo đức nghề nghiệp, quy định về thuế, cơ sở hạ tầng…
Cơ cấu NSNN tác động tiêu cực tới phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu thu mặc dù đã hoàn thiện đáng kể, tuy nhiên trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, các hạn chế ngày càng bộc lộ và tác động không nhỏ tới phát triển kinh tế - xã hội. Quy mô thu ngân sách có xu hướng giảm dần, trong khi nhu cầu chi vẫn rất lớn, dẫn tới cân đối thu - chi NSNN ngày càng căng thẳng.
Mặc dù, cơ cấu thu ngân sách được đa dạng hóa, nhưng còn thiếu một số khoản thu quan trọng trong hệ thống thu như: Thuế tài sản, các khoản phí dịch vụ đô thị, các khoản thu do chênh lệch giá gắn với phát triển hạ tầng... Thêm vào đó, cơ cấu thu theo phân cấp còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa gắn được quyền hạn với trách nhiệm của cấp chính quyền địa phương (theo nguyên tác nên gắn thu trên địa bàn với chi trên địa bàn để tăng cường trách nhiệm giải trình, hiệu qủa, hiệu lực của các quyết định thu – chi)
Cơ cấu chi ngân sách theo phân cấp quản lý còn bất cập.
Tỷ trọng các khoản chi trực tiếp của NSTW có xu hướng giảm nhanh, ảnh hưởng tới nguyên tắc hiến định về vai trò chủ đạo của NSTW. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến đầu tư phân tán, hiệu quả chưa cao; hạn chế khả năng đầu tư dứt điểm các công trình trọng yếu. Bên cạnh đó, tăng cường tỷ trọng chi NSNN cho địa phương, đặc biệt là chi đầu tư cũng tiềm ẩn những tác động không thuận tới tính ổn định, bền vững của NSNN và hiệu quả điều tiết vĩ mô.
Phân cấp chi ngân sách còn có tính chất phân chia đồng đều nhiệm vụ giữa các địa phương có quy mô, đặc thù kinh tế - chính trị - xã hội rất khác nhau, dẫn tới phân tán nguồn ngân sách, hạn chế hiệu quả chi ngân sách và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới các quyết định chi tiêu có tính chất phong trào thời gian qua.
Tổng chi ngân sách 2 năm (2016 - 2017) đạt khoảng 35 - 36% kế hoạch, đây cũng là mức tương đối thấp. Trong khi, bội chi NSNN bình quân 2 năm 2016 và 2017 là trên 4,2% GDP, nên cần phải giảm dần bội trong những năm tới để thực hiện mục tiêu bình quân của giai đoạn là 3,9%, dẫn tới khả năng tăng chi để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu chi đầu tư – thường xuyên còn bất cập. Xét theo nội dung, thì chi lương, các khoản có tính chất lương và chi thực hiện chính sách an sinh xã hội chiếm trên 60% tổng chi thường xuyên, bình quân khoảng 35-37% tổng chi ngân sách giai đoạn 2011-2015. Đây là con số khá cao so với mức bình quân chung so với các nền kinh tế mới nổi (chi lương của các nước này năm 2015 bình quân chiếm 27,2% tổng chi ngân sách).
Mặt khác, xét theo lĩnh vực cho thấy, chi các lĩnh vực giáo dục - đào tạo (khoảng 20-21%) :
Chi lĩnh vực y tế và đảm chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ Tài chính tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế tài chính ngân sách theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thúc đẩy mạnh mẽ cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí vào giá, phí dịch vụ sự nghiệp công, đổi mới kiểm soát chi, đơn giản hóa hồ sơ, rút ngắn thời gian xử lý, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt.
Triển khai các kế hoạch tài chính 5 năm, kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm và các kế hoạch tài chính, ngân sách 3 năm nhằm từng bước kiểm soát nhu cầu chi trong phạm vi khả năng nguồn lực của nền kinh tế, chủ động kiểm soát bội chi, thực hiện việc phân bổ ngân sách gắn với các ưu tiên trung hạn của nền kinh tế, từng bước nghiên cứu triển khai quản lý ngân sách theo kết quả nhiệm vụ...
Tình trạng phân bổ, giao vốn chậm, giải ngân không đạt dự toán, dẫn tới chuyển nguồn lớn, đầu tư phân tán, kéo dài , không dứt điểm vẫn diễn ra, số vốn bố trí đầu tư cho các công trình trọng điểm quốc gia, chương trình mục tiêu (là đối tượng ưu tiên) vẫn còn thấp.
Kinh phí trung hạn bố trí cho các chương trình mục tiêu bình quân chỉ khoảng 57% mức quy định tại Nghị quyết số 73/NQ-CP của Chính phủ và trong 03 năm (2016-2018), ngân sách trung ương mới bố trí được khoảng 35% mức kinh phí theo các quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ và 27,7% theo Nghị quyết số 73/NQ-CP...
Cơ cấu NSNN tác động tiêu cực tới an ninh, an toàn tài chính quốc gia.
Mặc dù, các giới hạn nợ công nằm trong ngưỡng quy định, tuy nhiên, thị trường vốn trong nước chưa phát triển, ổn định vĩ mô chưa chắc chắn, sự phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ chưa hiệu quả... Tình trạng này làm cho nợ công tăng nhanh, yêu cầu huy động vốn một số thời điểm đã vượt quá khả năng tác động tiêu cực tới việc huy động vốn của khu vực kinh tế, mặt bằng lãi suất, chi phí vốn của nền kinh tế.
Thực tế trên, tiềm ẩn các nguy cơ tăng mạnh nợ công, gâp áp lực bội chi. Thu NSNN, đặc biệt là thu NSTW gặp khó khăn, trong khi nhu cầu chi ngày càng lớn; các khoản vay lại của Chính phủ và vay được Chính phủ bảo lãnh không hiệu quả, tạo gánh nặng chi trả nợ của Chính phủ... Ngoài ra, việc tốt nghiệp các khoản vay ưu đãi từ IDA cũng dẫn đến tình thế phải tăng huy động vốn vay thương mại theo điều kiện thị trường, theo đó rủi ro về tỷ giá và lãi suất cũng sẽ tăng lên.
Tình hình :
Tình hình NSNN của Việt Nam trong năm 2016 diễn biến ra sao và nguyên nhân là gì ?
Nợ công cao, áp lực trả nợ lớn. Đến cuối năm 2015, nợ công bằng 62,2% GDP , nợ Chính phủ 50,3% (vượt trần quy định là 50%) , nợ nước ngoài của quốc gia 43,1%. Trường hợp tăng trưởng năm 2016 không đạt mục tiêu đề ra thì các tỷ lệ này sẽ còn cao hơn.
Nghĩa vụ chi trả nợ lãi trực tiếp năm 2015 bằng khoảng 8,4% tổng thu NSNN (nếu tính cả trả nợ gốc thì bằng trên 26%). Chi trả nợ giai đoạn 2011-2015 gấp 1,86 lần giai đoạn 2006-2010. Dự báo chi trả nợ sẽ tiếp tục tăng cao hơn trong các năm 2016, 2017 và 2018.
Việc sử dụng vốn đầu tư còn kém hiệu quả. Chỉ số ICOR bình quân giai đoạn 2011-2015 là 6,92, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Một số dự án sử dụng vốn đầu tư công hiệu quả thấp, lãng phí lớn.
Nợ đọng xây dựng cơ bản lớn. Quản lý đầu tư, khai thác, thu phí tại nhiều dự án BOT còn bất hợp lý, thiếu công khai, minh bạch, gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp. Quản lý sử dụng tài sản công, chi tiêu công còn lãng phí. Bội chi NSNN liên tục ở mức cao trong nhiều năm.
Thu ngân sách khó khăn, nhất là ngân sách trung ương, nợ đọng thuế còn lớn. Triển khai kế hoạch vốn đầu tư công năm 2016 chậm; giải ngân đạt thấp hơn cùng kỳ, trong đó vốn NSNN chỉ đạt 32,2% kế hoạch (cùng kỳ 2015 đạt 44,4%), vốn trái phiếu Chính phủ đạt khoảng 22% (cùng kỳ đạt 34%). Cơ cấu chi NSNN còn bất hợp lý, tỷ trọng chi đầu tư phát triển giảm từ 28% giai đoạn 2006-2010 xuống còn 23,4% giai đoạn 2011-2015, tỷ trọng chi thường xuyên tăng từ 55% lên 65%, chủ yếu do tăng chi cho con người và tiền lương.
Xử lý nợ xấu còn chưa thực chất và gặp nhiều khó khăn. Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) mới xử lý được 32.400 tỷ đồng trong tổng số 241.000 tỷ đồng nợ xấu đã mua (đạt 13,4%). Một số ngân hàng thương mại quản lý yếu kém, thua lỗ, mất vốn, nợ xấu lớn, để xảy ra vi phạm pháp luật. Các thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản phát triển chưa bền vững và còn tiềm ẩn rủi ro.
Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp; năng lực quản trị, giám sát nội bộ còn yếu kém. Một số dự án đầu tư lớn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước chậm tiến độ, kéo dài, hiệu quả thấp, thua lỗ, lãng phí, dừng đầu tư, dừng hoạt động; công tác quản lý cán bộ còn nhiều bất cập, chưa phát hiện và xử lý vi phạm kịp thời, để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.
Tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành của DNNN chưa đạt kế hoạch; tỷ lệ vốn đã được cổ phần hóa đạt thấp; số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong 6 tháng mới bằng 71%, thoái vốn nhà nước bằng 11,6% so với cùng kỳ; xử lý vướng mắc về tài chính, đất đai trong chuyển đổi công ty nông, lâm nghiệp còn chậm.
Quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường còn nhiều hạn chế. Quy định về tiêu chuẩn môi trường còn bất cập, chậm được hoàn thiện, thực thi pháp luật về môi trường chưa nghiêm, đánh giá tác động môi trường khi cấp phép dự án đầu tư còn hình thức, giám sát thực hiện còn nhiều yếu kém, phát hiện, xử lý vi phạm chưa kịp thời.
Tình trạng khai thác tài nguyên, khoáng sản, chặt phá rừng trái phép, cháy rừng còn nghiêm trọng, riêng rừng tự nhiên ở Tây Nguyên giai đoạn 2010-2014 giảm 273.000 ha. Đất rừng ở nhiều địa phương bị xâm hại nghiêm trọng. Chất lượng môi trường tự nhiên (không khí, nước, biển, rừng) nhiều nơi bị xuống cấp. Vấn đề chất thải rắn, xả thải ở nông thôn và đô thị còn rất nghiêm trọng. Tình hình khí hậu diễn biến bất thường, rét đậm, rét hại ở phía Bắc, hạn hán kéo dài ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long nghiêm trọng nhất trong nhiều năm qua và sự cố môi trường ở ven biển 4 tỉnh miền Trung đã gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất, đời sống và môi trường.
Tăng trưởng kinh tế chậm lại, thấp hơn cùng kỳ năm 2015 (5,52% so với 6,32%). Lần đầu tiên sau nhiều năm, khu vực nông nghiệp giảm 0,18%, sản lượng lúa vụ Đông Xuân giảm 1,34 triệu tấn. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) chỉ tăng 7,5% (cùng kỳ tăng 9,7%); trong đó công nghiệp khai khoáng giảm 2,2% (cùng kỳ tăng 8,48%). Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng thấp hơn cùng kỳ (5,9% so với 9,2%), trong đó nhiên liệu, khoáng sản giảm 38,7%, nhóm công nghiệp chế biến chỉ tăng 8,2% (cùng kỳ là 18%). Tổng kim ngạch nhập khẩu giảm 0,5% (cùng kỳ tăng 17,1%).
Sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Quy định về điều kiện kinh doanh còn phức tạp, nhiều giấy phép con. Doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận vốn, lãi suất vay còn cao. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Quản lý thị trường trong nước và thương mại biên giới có mặt còn bất cập; sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi bán lẻ hiện đại còn hạn chế. Buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không bảo đảm an toàn thực phẩm còn nhiều, gây bức xúc xã hội.
Tình trạng vật tư nông nghiệp giả, kém chất lượng còn nghiêm trọng, nhất là thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, giống cây trồng. Còn diễn ra nhiều vụ lừa đảo trong bán hàng đa cấp, tín dụng đen.
Tái cơ cấu nhiều ngành, lĩnh vực triển khai chậm, còn lúng túng. Xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương còn hình thức, chưa quan tâm đúng mức đến phát triển sản xuất và đời sống của người dân, nợ xây dựng nông thôn mới lớn . Phát triển công nghiệp hỗ trợ chậm, chưa đạt mục tiêu đề ra. Quản lý du lịch còn nhiều bất cập, nhất là đối với tour và hướng dẫn viên. Sự cố môi trường biển ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động du lịch, dịch vụ ở 4 tỉnh miền Trung.
Đời sống một bộ phận người dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai và sự cố môi trường. Sức ép tạo việc làm lớn, nhất là cho thanh niên và sinh viên mới tốt nghiệp. Nợ bảo hiểm xã hội còn cao (trên 12.000 tỷ đồng). Quá tải bệnh viện khắc phục chậm; quản lý nhiều dịch vụ tại bệnh viện còn bất cập; xảy ra nhiều vụ việc sai sót nghiêm trọng trong khám chữa bệnh. Tình trạng sử dụng chất cấm và sản xuất kinh doanh thực phẩm không an toàn diễn biến phức tạp. Chất lượng giáo dục đại học, dạy nghề chuyển biến chậm, chưa đáp ứng nhu cầu xã hội. Xảy ra nhiều vụ trẻ em đuối nước nghiêm trọng. Khoa học công nghệ ứng dụng chưa nhiều, đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội còn hạn chế. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học công nghệ công lập, phát triển thị trường còn nhiều khó khăn, số doanh nghiệp khoa học công nghệ còn ít, quy mô nhỏ. Giải quyết nhà ở và xây dựng thiết chế văn hóa cho công nhân ở khu công nghiệp tập trung chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều biểu hiện tiêu cực, xuống cấp về đạo đức, lối sống gây bức xúc, tệ nạn xã hội còn phức tạp.
Cải cách hành chính, năng lực xây dựng, thực thi pháp luật, cơ chế chính sách vẫn còn hạn chế, còn đùn đẩy trách nhiệm, phối hợp thiếu chặt chẽ giữa các bộ ngành, địa phương. Còn tình trạng văn bản pháp luật ban hành chậm, nhất là thông tư hướng dẫn thi hành pháp luật; một số quy định chưa khả thi, còn nhiều vướng mắc. Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực còn phiền hà, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp. Kỷ luật kỷ cương trong bộ máy hành chính và trong xã hội chưa nghiêm, năng lực, phẩm chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu.
Tình trạng tham nhũng còn nghiêm trọng, xảy ra nhiều vụ tham nhũng lớn trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng, đất đai... Việc kê khai tài sản còn hình thức; giám sát, kiểm tra, thanh tra hiệu quả thấp. Lãng phí trong cơ quan nhà nước và toàn xã hội còn lớn. Kết quả giải quyết khiếu nại tố cáo còn hạn chế, vẫn còn nhiều vụ khiếu nại tố cáo đông người.
Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức. Xảy ra tai nạn nghiêm trọng trong huấn luyện bay và tìm kiếm cứu nạn. Công tác bảo đảm an toàn cho ngư dân hoạt động trên biển còn nhiều khó khăn. Trật tự an toàn xã hội, tình hình tội phạm trên một số địa bàn diễn biến phức tạp, nhất là ở một số thành phố lớn. Còn nhiều vụ tai nạn giao thông và cháy nổ nghiêm trọng. Công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng còn nhiều hạn chế. Hiệu quả triển khai một số hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế chưa cao. Thông tin truyền thông về hội nhập và ứng phó với các thách thức của tiến trình hội nhập vẫn còn hạn chế, chưa chủ động. Thời gian qua, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu kéo dài, trong điều kiện NSNN hạn hẹp, chúng ta phải tập trung huy động nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kết cấu hạ tầng và đáp ứng các yêu cầu chi cấp bách về an sinh xã hội, quốc phòng an ninh, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Do đó, nợ công tăng nhanh, ở mức cao, dư địa chính sách, nhất là về tài khóa, tiền tệ và nguồn lực cho phát triển giai đoạn tới rất hạn hẹp. Để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 và 5 năm 2016-2020, chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện, sâu rộng, có những đột phá về cơ chế chính sách và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, quyết liệt hành động, huy động mọi nguồn lực, phát huy dân chủ, sáng tạo của người dân và doanh nghiệp.
Kết quả là : Tăng trưởng kinh tế chững lại là điểm nhấn nổi bật nhất trong bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2016, chỉ đạt 5,52% so với cùng kì năm 2015, mặc dù GDP trong quý II đã phục hồi tốt hơn quý I. Nguyên nhân do ngành nông nghiệp tăng trưởng âm là do tình hình thiên tai khắc nghiệt, khai khoáng suy giảm, một số ngành như xây dựng, bất động sản, tiêu dùng tăng trưởng chững lại. Lạm phát tăng hơn so với cùng kì năm ngoái do giá một số dịch vụ giáo dục và y tế được điều chỉnh tăng, giá thực phẩm tăng do tình hình thời tiết khắc nghiệt.
Lạm phát năm 2016 dự kiến tiệm cần mức 5% do còn nhiều yếu tố tác động tăng trong nửa cuối năm: điều chỉnh giá dịch vụ công, giá dầu thế giới có xu hướng tăng, chính sách tiền tệ nới lỏng vẫn được duy trì, Hoạt động của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, số lượng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động lớn, đặc biệt với nhóm có quy mô dưới 10 tỷ đồng và hoạt động tại khu vực Đông Nam Bộ, Xu hướng thắt chặt đầu tư công tiếp tục diễn ra trong bối cảnh thu ngân sách tăng chậm, nợ công lớn. Thu ngân sách 6 tháng tăng chậm 4,8% (các nguồn thu chính từ dầu thô và xuất nhập khẩu sụt giảm), chi cho đầu tư phát triển giảm 7,8%, tỷ lệ nợ công theo ước tính của HSBC sẽ chạm mốc giới hạn của Quốc Hội (65%) trong năm 2017; Tín dụng và huy động đều tăng trưởng cao hơn so với cùng kì năm trước, lãi suất trong quý II ổn định hơn so với thời điểm đầu năm. Tín dụng vẫn là động lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng cuối năm 2016.
Tuy nhiên dự kiến không tăng mạnh như năm 2015 do tăng trưởng kinh tế năm 2016 dự kiến thấp hơn năm 2015, Cán cân thương mại duy trì xuất siêu 1,5 tỷ USD. Xuất khẩu tăng chậm hơn cùng kì, nhập khẩu sụt giảm do nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp và tiêu thụ của người dân chững lại đã góp phần ổn định tỉ giá trong nửa đầu năm 2016.
Bên cạnh đó, vốn FDI giải ngân tăng tốt cùng với các giải pháp điều hành thị trường ngoại hối của NHNN giúp ổn định thị trường mặc dù tỉ giá trong quý II chịu nhiều biến động hơn thời điểm đầu năm.
Tình hình NSNN của Việt Nam trong năm 2017-2019.
CPI năm 2018 tăng 3,54% so với năm 2017, cao hơn nhiều so với mức 2,6% năm 2017, mặc dù đây năm thứ 5 liên tiếp lạm phát ổn định ở dưới 5%. Lạm phát cơ bản thấp (1,48%) phản ánh sức ép lạm phát chủ yếu từ phía chi phí đẩy. Nguyên nhân chủ yếu là do giá thực phẩm và xăng dầu .Sức ép tăng tỷ giá cũng có tác động đến lạm phát năm 2018. Với cấu trúc sản xuất hiện nay là thiếu công nghiệp phụ trợ phát triển, dựa phần lớn vào đầu vào và công nghệ từ bên ngoài, thì tác động của tăng tỷ giá làm gia tăng tổng cầu có thể thấp hơn nhiều so với tác động làm giảm tổng cung do chi phí đầu vào gia tăng, dẫn đến nguy cơ làm tăng lạm phát.
Hình 1: Tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán và lạm phát
- Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Nhà nước.
Tỷ giá năm 2018 có nhiều thời điểm biến động mạnh, bởi đối mặt cùng lúc với 2 sức ép lớn.
Thứ nhất là chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm giá. Đồng NDT đã mất giá hơn 5% kể từ đầu năm 2018 và việc giảm giá hơn nữa đồng NDT có thể tiếp tục là một phản ứng của Trung Quốc để chống đỡ tác động của chiến tranh thương mại. NDT giảm giá lại là một sức ép lớn đối với VND, hàng Trung Quốc giá rẻ hơn sẽ cạnh tranh trực tiếp với các hàng Việt Nam trên các thị trường xuất khẩu lớn, trong khi nhập khẩu gia tăng mạnh từ Trung Quốc trong bối cảnh Việt Nam đang có thâm hụt thương mại quy mô rất lớn từ Trung Quốc.
Thứ hai là FED liên tục gia tăng lãi suất (xuất phát từ kinh tế Mỹ mạnh hơn và tỷ lệ thất nghiệp giảm). Lãi suất USD tăng lên đặt trong chu kỳ dài hạn sẽ khiến các dòng vốn rút khỏi nhiều nơi. Cho dù Mỹ tăng lãi suất, hầu hết các nước đang phát triển và mới nổi lại muốn duy trì chính sách nới lỏng để giữ đồng nội tệ yếu, khuyến khích xuất khẩu và tăng trưởng trong bối cảnh không có nhiều công cụ để ứng phó với những bất lợi từ thế giới như hiện nay.
Hình 2. Biến động tỷ giá chính thức và tự do - Nguồn: Tổng hợp từ số liệu NHNN và tự tổng hợp
Với những sức ép lớn trên, tỷ giá VND/USD đã có xu hướng gia tăng, tỷ giá Ngân hàng thương mại cũng như tỷ giá tự do tăng cao sát biên trên, đặc biệt là ở nửa cuối năm 2018. Cho đến cuối năm 2018, trong khi tỷ giá trung tâm tăng khoảng gần 2% thì tỷ giá Ngân hàng thương mại đã tăng gần 3% so với đầu năm. Ngân hàng nhà nước đã tích cực can thiệp vào thị trường ngoại hối để giữ ổn định tỷ giá. Với quy mô dự trữ ngoại hối cao như hiện nay thì khả năng giữ ổn định tỷ giá ở mức độ hợp lý là có thể thực hiện được trong ngắn hạn.
Chính sách tiền tệ năm 2018 thắt chặt hơn so với năm 2017 (cung tiền tăng 11,34% so với 14,19% năm 2017; tín dụng tăng 13,3% so với 16,96% năm 2017). Lãi suất của nền kinh tế cũng ở tình thế khó giảm sâu hơn nữa. Trong suốt năm 2018, các mức lãi suất huy động và lãi suất liên ngân hàng thậm chí đã tăng cao hơn so với năm 2017.
Hình 3. Lãi suất chính sách và lãi suất liên ngân hàng - Nguồn: số liệu theo NHNN
Sức ép gia tăng tỷ giá khiến Ngân hàng nhà nước không thể giảm hơn nữa mức lãi suất để giữ giá trị tiền đồng, đảm bảo chênh lệch lãi suất VND – USD đủ hấp dẫn để tránh tình trạng đầu cơ ngoại tệ. Lạm phát gia tăng cũng khiến lãi suất danh nghĩa có xu hướng gia tăng. Ngoài ra, các chính sách đảm bảo an ninh và lành mạnh hệ thống cũng gián tiếp tác động khiến lãi suất tăng (ví dụ chính sách giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn được phép sử dụng để cho vay dài hạn giảm xuống 40% kể từ 1/1/2019 khiến cho nhu cầu huy động vốn dài hạn của các ngân hàng gia tăng; các Ngân hàng thương mại chuẩn bị tăng vốn cấp 2 theo Basel II).
Việc FED tăng lãi suất cũng gây sức ép đến lãi suất trong nước nếu không muốn các dòng vốn chảy ra khỏi nền kinh tế. Với mục tiêu điều hành chính sách là kiểm soát lạm phát và giữ ổn định tỷ giá, lãi suất sẽ bị tác động mạnh và khó có thể giảm xuống để hỗ trợ được tăng trưởng.
Ngoài ra, đến cuối năm 2018, tỷ trọng M2/GDP lên đến 168% và tín dụng/GDP khoảng 134% (Uỷ ban Giám sát Tài chính quốc gia, 2018), là mức cao nhất so với các nước trong khu vực, do tốc độ tăng cung tiền và tín dụng cao hơn từ hai đến ba lần so với tốc độ tăng trưởng trong nhiều năm qua, gây sức ép rủi ro ổn định tài chính, đặc biệt là khi vấn đề nợ xấu vẫn chưa được giải quyết triệt để. Bên cạnh đó, dư địa chính sách tiền tệ cũng bị thu hẹp đáng kể.
Về tình hình ngân sách, theo Uỷ ban Giám sát Tài chính quốc gia (2018), trong năm 2018, thu ngân sách ước tăng 5,5% so với năm 2017, đạt 103% dự toán cả năm. Chi ngân sách tăng 6,9%, đạt 102,6% dự toán cả năm. Cơ cấu thu ngân sách cho thấy, thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu có xu hướng giảm. Thu từ nội địa (trừ tiền đất) chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, chiếm khoảng 2/3 tổng thu ngân sách, nhưng gặp nhiều thách thức do nền kinh tế còn yếu. Trong khi đó, cơ cấu chi ngân sách cho thấy chi đầu tư phát triển đang có xu hướng giảm dần hoặc đi ngang, trong khi tốc độ tăng chi thường xuyên và tỷ trọng chi thường xuyên gia tăng nhanh chóng (khoảng 70% tổng chi ngân sách).
Chi ngân sách gia tăng nhanh trong khi thu ngân sách khó khăn nên thâm hụt Ngân sách nhà nước của Việt Nam ở mức cao trong nhiều năm qua, và đứng ở mức cao nhất so với các nước trong khu vực. Thâm hụt ngân sách của Việt Nam từ 2012 đến 2016 dao động ở mức 6 – 8% GDP. Năm 2017, thâm hụt ngân sách ở mức 3,48% GDP – do bắt đầu không tính chi trả nợ gốc theo quy định của Luật Ngân sách có hiệu lực từ 2017 và kinh tế hồi phục tốt. Tuy nhiên, mặc dù kinh tế tăng trưởng tốt hơn, bán vốn doanh nghiệp nhà nước và bán các tài sản nhà nước gia tăng, nhưng tỷ lệ thâm hụt ngân sách năm 2018 ở mức 3,67% GDP, tăng hơn so với năm 2017, mặc dù vẫn nằm trong ngưỡng Quốc hội phê duyệt (3,7%). Điều này phản ánh chi tiêu và kỷ luật tài khóa không được cải thiện.
Hình 4. Thâm hụt ngân sách Việt Nam (Ghi chú: Từ năm 2017, con số thống kê thâm hụt ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc) - Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Thâm hụt ngân sách cao qua các năm đã khiến nợ công hiện nay tăng lên nhanh chóng, và so với nhiều nước đang phát triển thì tỷ lệ nợ công của Việt Nam thuộc nhóm cao. Nợ công vẫn có xu hướng tăng từ năm 2012 đến 2017, từ 1.647 nghìn tỷ đồng vào năm 2012 đã tăng lên gần gấp đôi vào năm 2017 với 3.073 nghìn tỷ. Tỷ lệ nợ công trên GDP đạt 50,8% năm 2012 và tăng lên 61,37% năm 2017 và ước đạt 61,4% GDP năm 2018. Mặc dù tỷ lệ này vẫn nằm trong mức trần nợ công 65% mà Quốc hội cho phép, nhưng quy mô nợ gia tăng đang khiến mức chi trả nợ lãi vay ngày càng cao, theo đó, tỷ lệ ngân sách còn lại đầu tư cho phát triển suy giảm. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/tổng thu Ngân sách nhà nước cũng đã tiệm cận đến ngưỡng rủi ro 25% (bao gồm cả trả trong cân đối và đảo nợ).
2012 |
2013 |
2014 |
2015 |
2016 |
2017 |
|
Dư nợ công (nghìn tỷ đồng) |
1.647,1 |
1.952,6 |
2.284,8 |
2.556,0 |
2.863,9 |
3.073,5 |
GDP (nghìn tỷ đồng) |
3.245,4 |
3.584,3 |
3.937,9 |
4.192,9 |
4.502,7 |
5.007,8 |
Nợ công/GDP (%) |
50,8 |
54,5 |
58,0 |
61,0 |
63,6 |
61,4 |
Bảng 3. Quy mô nợ công 2012 – 2017- Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Tài chính
Tỷ lệ nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP đang có xu hướng tăng nhanh trong giai đoạn 2012 – 2017. Năm 2017, tỷ lệ này là 48,9%, ước tính năm 2018 là 49,7% GDP. Tỷ lệ này vẫn nằm trong ngưỡng Quốc hội cho phép, nhưng với xu hướng hiện nay thì khả năng tỷ lệ này vượt ngưỡng 50% là rất cao. Nguyên nhân chủ yếu là do quy mô vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo hình thức tự vay tự trả tăng nhanh. Đây là một dấu hiệu yêu cầu Chính phủ cần có các biện pháp quản lý nợ nước ngoài quốc gia chặt chẽ hơn.
Hình 5. Tỷ lệ nợ nước ngoài của quốc gia/GDP (%)
HOÀN THIỆN VỀ CÁN CÂN NGÂN SÁCH VIỆT NAM
Giải pháp chung về việc thu chi ngân sách Việt Nam
Nâng cao năng lực phân tích, dự báo, bảo đảm tính ổn định, vững chắc của NSNN, tạo sự chủ động cho các ngành, các cấp trong quá trình triển khai thực hiện; kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh phù hợp với tình hình trong và ngoài nước
Đổi mới toàn diện cơ chế quản lý ngân sách, khắc phục phương pháp quản lý NSNN theo cơ chế cũ, triển khai thực hiện theo các quy định tiến bộ. Động viên, phân bổ, quản lý và sử dụng các nguồn tài chính hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch; ưu tiên đầu tư hợp lý cho phát triển con người, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh cải cách hành chính và hiện đại hóa quản lý tài chính công; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán.
Giải pháp về việc thu ngân sách nhà nước.
Ở Việt Nam, đứng về phương diện pháp lý, thu NSNN bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của mình. Thu NSNN chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Theo Luật NSNN hiện hành, nội dung các khoản thu NSNN bao gồm: Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật :
Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước.
Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân.
Các khoản viện trợ.
Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Cần lưu ý là không tính vào thu NSNN các khoản thu mang tính chất hoàn trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật NSNN (Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào thu NSNN các khoản viện trợ không hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là các khoản vay ưu đãi không được tính vào thu NSNN.
Kết luận : thu ngân sách nhà nước là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa nhà nước với chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực nhà nước,nhằm giải quyết hài hòa các lợi ích kinh tế,xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ kinh tế xã hội của nhà nước
Đặc điểm thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Mọi khoản thu của nhà nước đều được thể chế hóa bởi các chính sách, chế độ và pháp luật của nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước phải căn cứ vào tình hình hiện thực của nền kinh tế; biểu hiển ở các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội GDP, giá cả, thu nhập, lãi suất, v.v...
Thu ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là chủ yếu.
Thu ngân sách theo hai phương thức: tự nguyện và bắt buộc
Nội dung thu ngân sách nhà nước:
Thu thuế
Phí và lệ phí
Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước
Thu từ hoạt động sự nghiệp
Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước
Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản
Yếu tố ảnh hưởng thu ngân sách nhà nước
Thu nhập GDP bình quân đầu người:đây là nhân tố quyết định đến mức động viên của NSNN.
Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế:đây là chi tiêu phản ánh hiểu quả của đầu tư phát triển kinh tế,tỉ suất này càng lớn thì nguồn tài chính càng lớn,do đó thu NSNN phụ thuộc vào mức độ trang trải các khoản chi phí của nhà nước.
Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên:đây là yếu tố làm tăng thu NSNN,ảnh hưởng đến việc năng cao tỉ suất thu.
Tổ chức bộ máy thu ngân sách: nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thu.
Các giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước
Một là, trong khi khai thác, cho thuê, nhượng bán tài sản, tài nguyên quốc gia tăng thu cho ngân sách, nhà nước cần phải dành kinh phí chính đáng để nuôi dưỡng, tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên ấy, không làm cạn kiệt và phá hủy tài sản, tài nguyên vì mục đích trước mắt.
Hai là, chính sách thuế phải vừa huy động được nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa khuyến khích tích tụ vốn cho doanh nghiệp và dân cư.
Ba là, chính sách vay dân để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước phải được đặt trên cơ sở thu nhập và mức sống của dân.
Bốn là, dùng ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp quan trọng trong những lĩnh vực then chốt, nhằm tạo ra nguồn tài chính mới.
Năm là, nhà nước cần có chính sách tiết kiệm, khuyến khích mọi người tiết kiệm tiêu dùng, tinh giản bộ máy, cải cách hành chính để tích lũy vốn chi cho đầu tư.
Giải pháp về việc chi ngân sách nhà nước
Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước gắn với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ;
Chi ngân sách nhà nước gắn với quyền lực nhà nước, mang tích chất pháp lý cao;
Các khoản chi của ngân sách nhà nước được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô;
Các khoản chi của ngân sách nhà nước mang tính chất không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu;
Các khoản chi của ngân sách nhà nước gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền lương, tín dụng, v.v... (các phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ)
Yếu tố ảnh hưởng đến chi ngân sách nhà nước
Chế độ xã hội là nhân tố cơ bản;
Sự phát triển của lực lượng sản xuất;
Khả năng tích lũy của nền kinh tế;
Mô hình tổ chức bộ máy của nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ, sự biến động của các phạm trù giá trị (giá cả, tỷ giá hối đoái, tiền lương,....)
Các giải pháp về việc chi ngân sách nhà nước
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách thu; tăng cường công tác quản lý thu NSNN, tập trung chống thất thu, xử lý nợ đọng thuế, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất dự toán thu NSNN.
Rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách thu theo hướng vừa khuyến khích sản xuất trong nước và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, vừa động viên hợp lý nguồn thu, chống thất thu ngân sách.
Tăng cường sự chỉ đạo, điều hành các cấp chính quyền địa phương trong việc phối hợp với các ngành để nâng cao chất lượng công tác quản lý thu ngân sác
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, kết hợp thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về giá; kiểm soát việc kê khai thuế, quyết toán thuế của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân để thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thuế, phí, lệ phí và thu khác vào NSNN.
Tăng cường kiểm soát chi NSNN, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả.
Chủ động rà soát, sắp xếp lại các nhiệm vụ chi thường xuyên; cắt giảm hoặc lùi thời gian thực hiện các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp thiết, các khoản chi mua sắm trang thiết bị, xe ô tô; hạn chế tối đa tổ chức hội nghị, hội thảo quốc gia, lễ khởi công, khánh thành, công bố quyết định… Tiết giảm tối thiểu 20% chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu… Đảm bảo nguồn thực hiện các chế độ, chính sách đã ban hành và chính sách an sinh xã hội, hạn chế tối đa bổ sung kinh phí ngoài dự toán. Thực hiện tiết kiệm thêm 10% dự toán chi thường xuyên của những tháng còn lại trong dự toán. Rà soát các trường hợp chính sách để chi thường xuyên thực sự hiệu quả. Sở dĩ có biện pháp này là vì gần đây, số trường hợp giả mạo hồ sơ để nhận tiền chính sách là không nhỏ.
Địa phương cần rà soát, kiểm tra chặt chẽ để xét các trường hợp chính sách như hộ nghèo, nạn nhân chất độc da cam, thương binh… để đảm bảo cho quá trình chi thường xuyên được đúng đắn và cho đúng đối tượng.
Tóm lại, trong 15 năm qua, hệ thống chính sách tài chính của Việt Nam liên tục được hoàn thiện, từng bước tiệm cận với thông lệ quốc tế. Nhờ đó, tiềm lực của tài chính quốc gia được tặng cười và mở mộng.
Tuy nhiên , diễn biến của những năm gần đây cho thấy, Việt Nam đang phải đối mặt với những rủi ro tài khóa nhất định khi nhìn nhận từ góc độ bền vững ngân sách. Theo đó, đối với Việt Nam cùng với việc điều chỉnh quy mô thu ngân sách nhà nước cũng đồng thời phải cơ cấu lại việc chi ngân sách nhà nước, từng bước giảm giần mức bội chi. Bên cạnh đó, phải đảm bảo sự hài hòa trong cơ cấu thu ngân sách nhà nước, tránh sự phụ thuộc vào một khoản thu lớn với những khoản thu mà cơ sở tính thuế có sự biến động lớn, đảm bảo được cán cân ngân sách nhà nước thường xuyên có được sự thặng dư. Việt Nam cũng phải hướng tới một cơ cấu chi ngân sách nhà nước phù hợp hơn, gắn chính sách chi ngân sách nhà nước với các định hướng phát triển trung và dài hạn. Đồng thời, cần tăng trưởng tính minh bạch và củng cố trách nhiệm giải trình tài khóa. Tuy vẫn còn nhiều điều bất cập nhưng nhà nước ta vẫn từng ngày, từng bước cố gắng , đổi mới và hoàn hiện hơn.
Phần tìm hiểu đề tài của nhóm chúng em đến đây là kết thúc.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn đến thầy và mong nhận được sự góp ý từ thầy !
Cần xem xét áp dụng hợp lý các biện pháp kiểm soát biên giới có giới hạn trong việc phòng ngừa dịch bệnh, bảo đảm nguồn nguyên phụ liệu, linh phụ kiện đầu vào sản xuất cho các doanh nghiệp công nghiệp trong nước.
Cùng với đó, cần có các biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất các nguyên phụ liệu đầu vào cho một số ngành công nghiệp như dệt may, da - giày (là các ngành phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu) tăng cường sản xuất để đáp ứng một phần nhu cầu nội địa.
Bài viết được tổng hợp từ:
- Vneconomy
- https://tuoitre.vn/
- Tri thức trẻ
- https://vietnamnet.vn/
- https://bnews.vn/
- http://www.hanoimoi.com.vn/
- http://thoibaotaichinhvietnam.vn/