THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
Đỗ Văn Tính – Khoa QTKD
Việclàm
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất nhiều định nghĩa nhằm làm sáng tỏ: “Việc làm là gì”. Và ở các quốc gia khác nhau do ảnh hưởng của nhiều yếu tố (như điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp…) người ta quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế không có một định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.
Theo Điều 13, Bộ luật Lao động Việt Nam: “Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việclàm”.
Trên thực tế việc làm nêu trên được thể hiện dưới 3 hình thức:
▪Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho công việcđó.
▪Hai là, làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để tiến hành công việcđó.
▪Balà,làmcáccôngviệcchohộgiađ´nhmìnhnhưngkhôngđượctrả
thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quảnlý.
Theo quan điểm của Mac: “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,…) để sử dụng sức lao động đó).
Sức lao động do người lao động sở hữu. Những điều kiện cần thiết như vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,… có thể do người lao động có quyền sở hữu, sử dụng hay quảnlý.
Theo quan điểm của Mac thì bất cứ tình huống nào xảy ra gây nên trạng thái mất cân bằng giữa sức lao động và điều kiện cần thiết để sử dụng sức lao động đó đều có thể dẫn tới sự thiếu việc làm hay mất việclàm.
Theo khái niệm được đưa ra trong từ điển Tiếng Việt: “Việc làm là công việc được giao cho làm và được trả công” [tr.1076]. Khái niệm này tương đối rộng, tuy nhiên còn một thuật ngữ chưa mang tính phổ biến đó là mang tính chất công việc “được giao”. Người lao động hoàn toàn có thể tự tạo ra việc làm để có thu nhập mà không cần phải ai giao việc cho.
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội [tr.19], khái niệm việc làm được hiểu là: “Trạng thái phù hợp về mặt số lượng và chất lượng giữa tư liệu sản xuất với sức lao động để tạo ra hàng hóa theo nhu cầu của thị trường”. Hiểu rộng ra có thể gọi việc làm là hoạt động có ích (sản xuất, dịch vụ, nghiên cứu, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật quản lý,….) tạo ra/có thunhập.
Theo Đại từ điển Kinh tế thị trường: “Việc làm là hành vi của nhân viên, có năng lực lao động thông qua hình thức nhất định kết hợp với tư liệu sản xuất để được thù lao hoặc thu nhập kinh doanh”.
Từ các quan điểm trên tác giả thống nhất với khái niệm: Việc làm là hoạt động lao động của các cá nhân trong xã hội nhằm mục đích tạo ra thu nhập (được trả công bằng tiền, hiện vật, trao đổi công; tự làm để tạo thu nhập, tạo lợi ích cho gia đình không hưởng tiềncông/lương).
Phân loại việc làm
Có nhiều cách nhìn nhận và phân loại việc làm nhưng cơ bản là đứng trên góc độ chủ thể hoạt động của việc làm là người lao động. Những hoạt động của người lao động thể hiện hình thức, tính chất, đặc điểm, yêu cầu và cả xu hướng của việc làm. Việc làm vì thế có thể phân loại theo chủ thể hoạt động lao động là người lao động và chủ thể tạo việc làm trong nền kinh tế.
Người có việc làm, theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Người có việc làm là những người đang làm một việc gì đó được trả tiền công hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự thoả mãn lợi ích thay thế thu nhập của giađình”.
Theo Tổng cục Thống kê: “Người có việc làm là những người đang làm việc trong thời gian quan sát và những người trước đó có việc làm nhưng hiện đang nghỉ tạm thời vì các lý do như ốm đau, đình công, nghỉ hè, lễ trong thời gian sắp xếp lại sản xuất do thời tiết xấu, máy móc hư hỏng…”. Người có việc làm có thể chia thành 2 nhóm là người đủ việc làm và người thiếu việclàm.
Người đủ việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo lớn hơn hoặc bằng 36 giờ; hoặc những người làm việc có số giờ nhỏ hơn 36 giờ nhưng bằng hoặc lớn hơn số giờ chế độ quy định đối với các công việc nặng nhọc, độc hại. Người thiếu việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo dưới 36 giờ; hoặc ít hơn số giờ theo chế độ quy định đối với các công việc nặng nhọc, độchại.
Theo hoạt động của mỗi cá thể người lao động việc làm có thể chia thành: việc làm chính, việc làm phụ.
▪Việc làm chính: là công việc mà người lao động dành nhiều thời gian nhất so với công việc khác.
▪Việc làm phụ: là việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính.
Trong trường hợp việc làm chính và phụ có thời gian bằng nhau thì việc làm nào có thu nhập cao hơn được xem là việc làmchính.
Theo phân loai của Cục điều tra thực trạng việc làm và thất nghiệp hằng năm của Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội phân ra, việc làm trong:
- Khu vực hành chính: cơ quan tổ chức hành chính Nhà nước (các cấp Bộ/Ban/Ngành ỏ Trung ương, Tỉnh, Huyện,Xã,…),
- Khu vực sự nghiệp: các đơn vị sự nghiệp (giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, truyền thông, thể thao,…) gồm cả công lập, bán công, tư thực, dân lập.
- Khu vực cộng đồng: các cơ quan Đảng, Đoàn, tổ chức chính trị, các hiệp hội;
- Khu vực sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp trong nước: các doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân;
- Khu vực hợp tác xã: hiện đang hoạt động theo Luận Hợp tác xã;
- Khu vực kinh tế hộ: kinh tế cá thể, hộ gia đình;
- Khu vực có yếu tố nước ngoài: việc làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trong các cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài khác.
Các chỉ tiêu đo lường
▪Tỷ lệ người có việc làm: là tỷ lệ % của số người có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế.
▪Tỷ lệ người có việc làm đầy đủ: là tỷ lệ % của số người có việc làm đầy đủ so với dân số hoạt động kinh tế. Dân số hoạt động kinh tế (DSHĐKT) là một bộ phận dân số cung cấp hoặc sẵn sàng cung cấp sức lao động cho sản xuất của cải vật chất và dịch vụ. DSHĐKT = Những người đang làm việc + Những người thất nghiệp
Những người đang làm việc = Những người trong độ tuổi lao động + ngoài độ tuổi lao động đang tham gia làm việc trong các ngành của nền kinh tế quốcdân.
Những người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu tìm việc nhưng hiện tại chưa tìm được việc.
Thị trường laođộng
Có rất nhiều khái niệm về thị trường lao động, mỗi một thị trường lao động lại có những đặc điểm riêng của mình. Thị trường lao động khác biệt so với thị trường hàng hóa ở chỗ, nó thể hiện phần lớn những biểu hiện kinh tế xã hội của cả xã hội và có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của nó. Vì vậy, thị trường lao động của Mỹ, Nhật, Tây Âu, Nga, Trung Quốc và Việt Nam có rất nhiều khácnhau.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường lao động là thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm được trả công.
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng:“… Thị trường mà đảm bảo việc làm cho người lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm, thì được gọi là thị trường lao động” ; hoặc, “… Thị trường - đó là một cơ chế, mà với sự trợ giúp của nó hệ số giữa người lao động và số lượng chỗ làm việc được điều tiết”.
Các nhà khoa học kinh tế Nga thì lại cho rằng: “Thị trường lao động được hiểu như một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế xã hội (trong đó có cả pháp luật), đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử dụng lao động”; Hoặc: Hệ thống những quan hệ được hình thành trên cơ sở giá trị giữa những người sử dụng lao động (sở hữu tư liệu sản xuất) và những người làm thuê (sở hữu sức lao động) về vấn đề trước nhất là thoả mãn cầu lao động và vấn đề tiếp theo là làm thuê như nguồn phương tiện để tồntại”.
“Thị trường lao động - đó là một dạng đặc biệt của thị trường hàng hóa, mà nội dung của nó là thực hiện vấn đề mua và bán loại hàng hóa có ý nghĩa đặc biệt - sức lao động, hay là khả năng lao động của con người. Như một phạm trù kinh tế thị trường sức lao động thể hiện quan hệ kinh tế giữa một bên là người làm chủ hàng hóa này, sở hữu sức lao động - người bán nó và bên kia, với người sở hữu vốn - mua sức lao động”.
Theo các nhà khoa học kinh tế Việt Nam khái niệm này còn đa dạng và phong phú hơn nhiều: “Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội, tranh chấp lao động...), ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là người lao động tự do và một bên là người sử dụng laođộng”..
“Thị trường lao động (hoặc thị trường sức lao động) là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động (người lao động làm thuê) và người mua sức lao động (người sử dụng sức lao động), thông qua các hình thức thoả thuận về giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thoả thuận khác”.
“Thị trường “sức lao động” là nơi thể hiện quan hệ xã hội giữa người lao động làm thuê và người thuê mướn lao động thông qua sự điều chỉnh giá cả tiền công”. “Thị trường lao động biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là người có sức lao động và bên kia là người sử dụng sức lao động nhằm xác định số lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng”.
Bất kỳ khái niệm nào đều có những khía cạnh đúng. Trích dẫn trên đây chỉ một vài trong số nhiều khái niệm để nhấn mạnh tính phức tạp của chính khái niệm “thị trường lao động”, cùng với tính đa dạng và sự đặc biệt của nó. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, phương pháp tiếp cận của một vài tác giả trên đây sẽ dẫn đến sẽ đánh giá sai lệch một cách nghiêm trọng những tình huống đang xuất hiện trong lĩnh vực việc làm và triển vọng hình thành,pháttriển của thị trường lao động trong nền kinh tế đang chuyển đổi mạnh mẽ sang quan hệ thị trường.
Từ đó, trong khái niệm “Thị trường lao động” chúng tôi thấy cần thiết phải bổ sung thêm, dựa vào những gì thị trường lao động tồn tại và nó hoạt động trong bối cảnh không gian nào.
Theo tác giả, khái niệm “Thị trường lao động” mà nhà khoa học kinh tế Nga Kostin Leonit Alecxeevich đưa ra là tương đối đầy đủ: “Thị trường lao động - đó là một cơ chế hoạt động tương hỗ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong một không gian kinh té xác định, thể hiện những quan hệ kinh tê' và pháp lý giữa họ với nhau”. Hay nói chi tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao động (người lao động) và người sử dụng nó (người thuê lao động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi và hàng hóa và dịch vụ sẽ được làmra.
Đối với người nắm giữ sức lao động sẽ được tạo ra cơ hội để nhận chỗ làm việc, nơi mà anh ta có thể làm việc, thể hiện khả năng, và nhận thụ nhập để tái sản xuất sức lao động củamình.
Đối với người thuê lao động sẽ có cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế. Trên thị trường sẽ hình thành những quan hệ việc làm. Vì vậy, nó xác định nội dung đích thực của thị trường lao động như thị trường việc làm.
Nghề nghiệp và đặc điểm của nghềnghiệp
Nghề là một dạng của hoạt động lao động trong hệ thống phân công lao động. Nó là tổng hợp những kiến thức và kỹ năng trong lao động mà con người tiếp thu được do kết quả đào tạo chuyên môn và tích lũy kinh nghiệm trong công việc.
Nghề có các đặc điểmsau:
▪Là một công việc chuyên làm.
▪Là phương tiện sinh sống gắn với cả hoặc phần lớn cuộc đời.
▪Theo nghĩa rộng bao gồm cả lao động trí óc và lao động chân tay.
▪Phù hợp cho xã hội và có ích cho xã hội.
Theo chính kiến của tác giả và tham khảo ý kiến của một số cá nhân đã từng đi xin việc trong tất cả các yếu tố để người lao động đi đến quyết định lựa chọn nghề nghiệp cho mình có ba yếu tố quan trọng đó là: (i) Thu nhập; (ii) Môi trường làm việc và (iii) Cơ hội thăngtiến.
Thấtnghiệp
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia.org: “Thất nghiệp”, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm được việc làm (từ Hán-Việt thất: mất mát, nghiệp: việc làm). Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xãhội.
Công thức tính tỷ lệ thấtnghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp = Số người không có việc làm/Tổng số lao động xã hội*100%
Tử số: Không tính những người không cố gắng tìmviệc.
Mẫu số: Tổng số lao động xã hội = Số người có việc làm + số người không có việc làmnhưng tích cực tìmviệc.
Các dạng thất nghiệp
▪Thất nghiệp cổ điển: là dạng thất nghiệp liên quan tới loại việc làm mà tiền công thực tế trả cho người làm công việc đó cao hơn mức tiền công thực tế bình quân của thị trường lao động chung, khiến cho lượng cung về lao động đối với công việc này cao hơn lượng cầu. Dạng thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp tiền công thực tế.
▪Thất nghiệp cơ cấu: là dạng thất nghiệp do người lao động và người thuê mướn lao động không tìm được nhau vì những lý do như khác biệt về địa lý, thiếu thông tin, v.v...
▪Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp liên quan đến chu kỳ kinh tế tại pha mà tổng cầu thấp hơn tổng cung dẫn tới doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất và phải giảm thuê mướn lao động. Dạng thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp Keynes vì Keynes là người đề xướng thuyết về tổng cầu-tổng cung.
▪Thất nghiệp ma sát: là loại thất nghiệp tạm thời do người lao động đang chờ để tìm được việc làm mà họ kỳ vọng chứ không phải không thể tìm được việc làm nào.
▪Thất nghiệp trá hình: là dạng thất nghiệp của những người lao động không được sử dụng đúng hoặc không được sử dụng hết kỹ năng. Thuộc loại này bao gồm cả những người làm nghề nông trong thời điểm nông nhàn (đôi khi những người này được tách riêng thành những người thất nghiệp theo thời vụ).
▪Thất nghiệp ẩn: là dạng thất nghiệp không được báo cáo.
Các lý thuyết kinh tế về việclàm
Khi xem xét quan hệ cung – cầu và sự biến động của lực lượng lao động ta có thể vận dụng các mô hình việc làm, cung cầu, dịch chuyển lao động, gia tăng và biến động việc làm. Các mô hình kinh tế có liên quan đến việc làm, thất nghiệp nổi tiếng như Thuyết tiếp thị địa phương, Trường phái cổ điển (A.Smith và D.Ricardo), Lý thuyết việc làm của J.M.Keynes, Lý thuyết việc làm và thất nghiệp của C.Mác mà ngày nay còn ảnh hưởng đến chính sách việc làm của nền kinhtế.
Lý thuyết tiếp thị địaphương
Tiếp thị địa phương được định nghĩa là: “Một kế hoạch tổng hợp đồng bộ giới thiệu về một địa phương với những đặc điểm nổi bật, các ưu thế hiện có và viễn cảnh phát triển lâu dài của địa phương đó nhằm thu hút các nhà đầu tư, kinh doanh, những người du lịch, những cư dân đến địa phương đó tìm những cơ hội đầu tư kinh doanh hay thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng của mình, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội chung của địa phương”.
Kinh tế học đã nghiên cứu hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị và hiện tượng chảy máu chất xám của các nước thế giới thứ ba khi những người sinh viên tốt nghiệp không muốn quay về quê hương/đất nước cũ làm việc {Torado, 1998}. Lý do chính được giải thích cho hiện tượng này là cơ hội việc làm và mức thu nhập cao ở thành thị và các nước công nghiệp pháp triển.
Mặc dù đã tìm hiểu, khảo sát kỹ lưỡng trên nhiều nguồn thông tin khác nhau nhưng tác giả vẫn không tìm được các mô hình và thang đo về các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Lý thuyết tiếp thị địa phương của Kotler et al {1993} được sử dụng làm cơ sở cho nghiên cứu địnhtính.
Theo đó, sự hấp dẫn của địa phương thể hiện thông qua các hình ảnh, chính sách, cơ hội phát triển và điều kiện sống đối với dân cư nói chung, đối với sinh viên tốt nghiệp nói riêng. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp đã được phát triển và làm rõ hơn trong lý thuyết tiếp thị địa phương (Marketing Places) của Kotler, Haider, Rein{1993}.
Theo Kotler et al{1993}, có ba thành phần chính tạo nên sự hấp dẫn của một địa phương cho việc thu hút dân cưmới:
▪Các vốn quý độc đáo của riêng địa phương đang có hoặc có tiềm năng nhưng chưa khai thác.
▪Các dịch vụ cho những con người cụ thể và gia đình của họ, như những ưu đãi về thuế, nhà ở hấp dẫn, môi trường giáo dục tốt, chi phí rẻ, điều kiện an sinh xã hội tốt, thái độ tích cực niềm nở đối với người mới đến v.v…
▪Các dịch vụ tái định cư, nỗ lực tìm kiếm cơ hội việc làm cho người thân hay đối tác.
Thuyết kinh tế theo trường phái cổ điển (A.Smith vàD.Ricardo)
A.Smith cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh tự do, bàn tay vô hình đảm bảo quân bình và hoàn hảo trong xã hội, đạt được phúc lợi cá nhân và phúc lợi chung. D.Ricardo và A.Marshall cũng cùng quan điểm khi cho rằng nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết và không thất sự cần thiết điều tiết của Nhà nước. Mô hình cổ điển có 4 hướng để làm tăng việc làm: (i) Cải tiến tổ chức, dự báo tốt để tránh thất nghiệp cơ cấu; (ii) Hạ thấp độ phi thỏa dụng biên của lao động qua tiền lương thực tế; (iii) Tăng thêm năng suất biên vật chất của lao động trong các ngành sản xuất hàng hóa cho người ăn lương; (iv) Tăng giá hàng hóa không dành cho người ăn lương so với giá cả các hàng hóakhác.
Lý thuyết về việc làm của John MaynardKeynes
John Meynard Keynes được biết đến như là một nhà kinh tế lỗi lạc với công trình nổi tiếng là Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, xuất bản năm1936. J.M.Keynes cho rằng tăng đầu tư làm tăng tổng cầu và tăng việc làm và Nhà nước có vai trò chủ động can thiệp đến tổng cầu, sản lượng và việc làm của nền kinh tế. Đồng thời khuynh hướng tiêu dùng biên và lãi suất cũng ảnh hưởng tới tập hợp cầu và xác định mức việc làm. Dẫn đến, để kích thích kinh tế, <i> Thứ nhất, giảm lãi suất cho phép tăng tín dụng; <ii> Thứ hai, xã hội hóa đầu tư (đầu tư rộng và đúng); <iii> Thứ ba, những biện pháp không ngừng tăng tiêu dùng.
Theo đó, giả thuyết của Keynes khi tính số lượng việc làm: Việc làm tương đương với đơn vị việc làm được chia nhỏ bằng các đơn vị công việc của công việc đơn giản (không có kỹ năng) và tiền lương/tiền công được xác định bằng đơn vị tiền công cho một đơn vị việc làm đơn giản (w). Khi đó công thức tính tổng tiền lương sẽ là: W = N x w, trong đó N: khối lượng việc làm. Gải thuyết như vậy cho phép đo lường khối lượng việc làm mà không quan tâm đến vấn đề chất lượng lao động trình độ, kỹ năng kỹ thuật của lao động, mức độ phức tạp, trang bịvốn,…
Lý thuyết việc làm và thất nghiệp củaC.Mac
Việc làm chiếm vị trí quan trọng và đầy ý nghĩa trong tác phẩm “Tư bản” của Các Mác. C.Mac dựa trên các lý luận căn bản về giá trị thặng dư, quy luật dân số và đặc biệt là cấu trúc hữu cơ của vốn. Công thức cơ bản về giá trị hàng hóa (c + v + m) được cấu thành từ ba yếu tố: (c): Tư bản cố định; (v): Tư bảnlưu động và (m): giá trị thặng dư. C.Mac cho rằng cấu trúc hữu cơ của tư bản thay đổi trong quá trình tích lũy là nguyên nhân căn bản của gia tăng hay giảm dần việc làm tương đối (tư bản lưu động) so với tư bản cố định. Trong quá trình làm thay đổi cấu trúc hữu cơ của tư bản, người công nhân vô hình dung đang làm giảm việc làm và đang tự biến mình thành nhân khẩu thừa tươngđối.
Lý thuyết về tháiđộ
Thái độ là một sự biểu lộ về cảm giác tinh thần mà nó phản ánh những đánh giá tiêu cực hay tích cực đối với một đối tượng nào đó (nhãn hiệu, sản phẩm, dịch vụ,…). Như là một kết quả của các quá trình tâm lý, thái độ không thể quan sát một cách trực tiếp nhưng nó có thể được suy ra từ những lời nói hoặc hành vi của con người. Có nhiều quan điểm về thái độ, Gordon Allport (1970) định nghĩa: “Thái độ là một trạng thái thiên về nhận thức (learned) để phản ánh việc thích hay không thích một đối tượng cụ thể nàođó”.
Mô hình thái độba thành phần (Tricomponent Attitude Model_TAM)
Theo Schiffman và Kanuk (1987), thái độ được miêu tả gồm ba thành phần:Nhận thức (Cognitive), Cảm xúc hay sự ưa thích (Affective) và Xu hướng hành vi (Conative).
Thành phần nhận thức liên quan đến sự hiểu biết (Knowledge) và niềm tin (Belief) của một cá nhân về đối tượng. Nhận thức dựa trên kiến thức hay sự hiểu biết của sinh viên về vấn đề việc làm thông qua những thông tin nhận được từ các báo đài, người thân, bạnbè.
Thành phần cảm xúc hay sự ưa thích đại diện cho cảm giác chung của sinh viên về việc thích hay không thích một đối tượng. Thành phần này thể hiện sự ưa thích nói chung về đối tượng chứ không phân biệt từng thuộc tính của đối tượng. Ví dụ, tôi thích làm việc cho công ty hơn là cho Nhà nước. Sự đánh giá một cách chung chung này có thể chỉ là mơ hồ, hoặc có thể chỉ là kết quả của việc đánh giá chung về sản phẩm dựa trên vài thuộc tính. Cảm xúc thường được đề cập đếnnhư là một thành phần chủ yếu của thái độ. Thật vậy, một số nhà nghiên cứu xem thành phần này chính là thái độ và hai thành phần còn lại mang chức năng hỗ trợ hoặc phục vụ cho thành phần cảmxúc.
Thành phần xu hướng hành vi hay còn gọi là ý định lựa chọn công việc được thể hiện qua xu hướng lựa chọn của họ. Họ có thể có xu hướng chọn làm việc ở quê nhà, Cần Thơ hay tỉnhkhác.
Như vậy, thái độ của sinh viên đối với vấn đề định hướng việc làm sau khi tốt nghiệp bao gồm ba thành phần chính: nhận thức về việc làm, thích thú về lựa chọn việc làm và xu hướng việc làm trong tươnglai.
Bên cạnh đó còn có các mô hình sau:
Mô hình nổi tiếng nghiên cứu sự dịch chuyển việc làm từ khu vực nông thôn, nghèo, lạc hậu (khu vực truyền thống) sang khu vực thành thị, công nghiệp (khu vực hiện đại) của Arthur Lewis (sau này được Fei và Ramis hoàn thiện). Mô hình này giả định nền kinh tế có hai khu vực chính là nông nghiệp với đặc trưng lạc hậu và dư thừa lao động; và công nghiệp đại diện cho khu vực hiện đại đang thu hút lao động dịch chuyển từ nông nghiệp sang. Nhờ có quá trình dịch chuyển lao động này mà lao động ở nông thôn giảm đi, việc làm trong ngành công nghiệp tănglên.
Mô hình của H.T.Oshima coi trọng thúc đấy việc làm ở cả ha khu vực. Quá trình phát triển chia thành ba giai đoạn phù hợp với các nước đang phát triển là giai đoạn bắt đầu, giai đoạn hướng tới việc làm đầy đủ, và giai đoạn phát triển kinh tế chiều sâu. Xét về dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ hai mô hình cùng mang đến những chính sách phát triển kinh tế căn bản dựa trên hai khu vực. Xuất phát từ mô hình của Arthur Lewis với khu vực công nghiệp là “đầu kéo” thu hút lao động từ nông nghiệp sang, đến mô hình của H.T.Oshima với giai đoạn đầu lấy nông nghiệp làm “đầu đẩy” làm cho lao động dư thừ ở khu vực này dẫn đến sự dịch chuyển sang khu vực công nghiệp, dịchvụ.Kotler và Fox đã đề xuất mô hình tổng quát thể hiện các bước tiến hành để ra một quyết định phức tạp
Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng việc làm
Chọn cho mình một nơi làm việc phù hợp là đã tạo nên thành công trong tương lai. Và trong cuộc sống có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình định hướng chọn việc làm của bất kỳ một sinh viên nào.
Sựhấpdẫncủađịaphương
Mỗi địa phương có một vị trí, đặc điểm và các thế mạnh khác nhau để thu hút các nguồn nhân lực từ các nơi khác đến. Chính vì thế, thu hút nguồn nhân lực là một chính sách được rất nhiều địa phương quan tâm thực hiện trong những năm gần đây nhằm nâng con chất lượng đôi ngũ cán bộ công chức, đáp ứng được yêu cầu quản lý trong thời kỳmới.
Những thành phố lớn là nơi thu hút được rất nhiều lao động từ trình độ thấp đến trình độ cao vì ở đây có nhiều khu công nghiệp, công ty,…nên nhu cầu về nguồn nhân lực là rất lớn. Do đó, cơ hội việc làm ở đây là rất cao. Bên cạnh đó yếu tố thu nhập được người lao động quan tâm nhất. Một trong những lý do các thành phố này thu hút được một số lượng lớn nhân lực là vì có sự hấp dẫn về chế độ đãi ngộ về cả vật chất lẫn tinh thần. Với mức lương cao sẽ khuyến khích người tài cống hiến sứclực.
Cơ sở hạ tầng vui chơi, giải trí là một đặc điểm có thể thu hút nguồn nhân lực trẻ. Sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi là khoảng thời gian được thư giãn vui chơi cùng bạn bè, gia đình và người thân. Vì thế nhu cầu về vui chơi, giải trí là một nhu cầu thiết yếu về tinh thần của bản thân. Ví dụ như Tp Hồ Chí Minh, một thành phố đông đúc nhất ở Việt Nam, có rất nhiều địa điểm vui chơi, giải trí thu nên thu hút được rất nhiều lao động từ trên khắp đất nước về đây sinh sống và làmviệc.
Môi trường làmviệc
Môi trường làm việc là một trong những yếu tố thu hút nhiều nhân tài từ nhiều nơi về để phục vụ cho công ty, giúp công ty phát triển. Nó góp phần tạo nênsựthànhcôngcủacôngty.Mộtmôitrườnglàmviệctốtsẽkíchthíchnhânviên hăng hái trong công việc, tạo tâm lý thoải mái để làm việc. Nó gắn liền với các đặc điểm sau: hỗ trợ không kịp thời và công bằng của cấp quản lý; công việc nặng nhọc; hỗ trợ liên quan đến gia đình (nhà tập thể), và thiếu dụng cụ hỗ trợ làm việc. Nhân viên được làm việc trong một môi trường năng động, trang thiết bị phục vụ cho công việc tốt sẽ tạo nên sự hài lòng trong bản thân của mỗi nhân viên. Từ đó có thể làm hiệu suất làm việc tăng lên. Môi trường làm việc và học tập tốt hơn sẽ giúp họ có cơ hội nâng cao trình độ học vấn hoặc chuyênmôn.
Năng lực bảnthân
Sự nghiệp của bạn sẽ thăng hoa nếu bạn được làm công việc mình yêu thích. Và hiểu rõ về năng lực bản thân sẽ giúp chúng ta biến mọi cố gắng trở thành hiệnthực.
Phải trả lời thật chính xác những câu hỏi cơ bản nhất về chính mình cũng như những vấn đề tâm lý có liên quan. Việc tìm hiểu về năng lực của cá nhân như chỉ số thông minh IQ, chỉ số sáng tạo CQ, chỉ số cảm xúc EQ hay những khả năng cụ thể khác như sắc giác, chú ý (sức tập trung, sức phân phối…), quan sát, tư duy không gian, trí nhớ sơ đồ, tưởng tượng sáng tạo, ngôn ngữ… là những yêu cầu tối quan trọng. Tuy vậy, điều quan trọng không kém là phải xác định thực sự được khả năng học tập, khả năng và tố chất của cá nhân. Khả năng này là khả năng triển vọng chứ không phải là điểm số thực tế họctập.
Năng khiếu của mỗi người là khác nhau và cùng bộc lộ một cách khác nhau. Đây có thể coi là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chọn trường, chọn nghề củabạn.
Dù học bất cứ ngành nghề lĩnh vực nào đi nữa thì mỗi bạn sinh viên cũng cần tạo cho mình một nền tảng kiến thức vững chắc thì mới có thể làm tốt côngviệc của mình. Tạo cho bản thân một niềm đam mê công việc, một sự nhiệt tình khao khát thể hiện bản thân. Sinh viên ngoài những kiến thức được học trên lớp còn những kĩ năng cả trong công việc và cuộc sống. Nó cũng là một trong những nhân tố không thể nào thiếu khi sinh viên tốt nghiệp ra trường. Sinh viên có thể học các kĩ năng này bất kì đâu. Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, trong các tổ chức, trong các hoạt động chung của trường (trong các câu lạc bộ, các cuộc thi,..
Tất cả đều tạo cho sinh viên những kĩ năng, sự tự tin và khả năng thích ứng với công việc và môi trường mới.
Bên cạnh một kiến thức chuyên môn sâu và chắc chắn các bạn cần có phải có kiến thức về ngoại ngữ, tin học, khả năng làm việc theo nhóm, kĩ năng làm việc, cách trình bày diễn đạt tự tin, đam mê nghề nghiệp. Đó thật sự và không thể thiếu đòi hỏi các bạn sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường. Điều đó có thể nhận thấy trong thực tế hiện nay khi năm 2011 cả nước có 63% sinh viên ra trường thất nghiệp vì thiếu kỹ năng làm việc. Khó có bạn sinh viên nào khi ra trường lại chỉ cầm một tấm bằng đại học duy nhất bên cạnh tấm bằng đại học các bạn cần có thêm tấm bằng tiếng anh với chuẩn mực quốc tế, mọi kiến thức vững về tin học để có thể làm việc bằng máy tính. Chỉ có vậy sinh viên mới có cơ hội kiếm cho mình những việc làm theo như mong ước củamình.
Không ai hiểu bạn hơn chính bản thân bạn, người đã can đảm chọn đúng mục tiêu đời mình. Bạn sẽ không bao giờ thất vọng với việc học nếu các bạn đã xác định được mục tiêu của mình là học cái gì và học để làm gì. Và cá nhân phải biết mình là người có tính cách như: kiềm chế, trung thực, bảo mật, gan dạ, dũng cảm, cẩn thận … để hướng đến những nghề nghiệp phù hợp.
Thị trường laođộng
Sau khi rời ghế nhà trường THPT, cả một chân trời tương lai đang hiện ra trước mắt các bạn. Cơ hội để nâng cao tri thức, kỹ năng của sinh viên chưa bao giờ nhiều như bây giờ. Làm việc ở đâu đây? Làm ở quê nhà hay tại thành phố?, Làm việc cho Nhà nước hay cho Công ty? Ngành nào đang hái ra tiền và ngành nào bảo đảm ra trường không thất nghiệp. Các vấn đề đó còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình chung của nền kinh tế, đặc biệt là vấn đề thất nghiệp.
Trên thực tế, trong thời buổi hiện nay, thất nghiệp không chỉ là nỗi ám ảnh của sinh viên mới ra trường mà còn của cả người đang có việc. Kinh tế suy thoái buộc các doanh nghiệp phải tiết giảm chi phí tối đa bằng nhiều cách. Bên cạnh việc cắt giảm bớt nhân sự thì tuyển dụng cũng bị hạn chế với các tiêu chuẩn ứng viên ngày càng siết chặt. Đây là thời điểm để doanh nghiệp chọn được những người giỏi, thạo kỹ năng, giàu kinh nghiệm nhưng cũng là giai đoạn cực kỳ khó khăn để tìm việc và giữ việc, đặc biệt là với sinh viên mới ra trường. Vì thế nó ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định của cá nhân sinh viên khi quyết định chọn nghề nghiệp trong tương lai.
Song song đó, cơ hội một người có thể có việc làm hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình cung - cầu của nguồn lao động trên thị trường. Thị trường có nhiều cơ hội việc làm hay không? Người lao động có thể dễ dàng di chuyển xa từ nơi này sang nơi khác để tìm kiếm việc làm không? Người lao động có dễ dàng tiếp cận được với thông tin về việc làm hay không? Vùng nơi họ sinh sống. Cơ cấu ngành nghề ở địa phương như thếnào?
Bên cạnh đó, các yêu cầu trong công việc của nhà tuyển dụng cũng là một vấn đề có ảnh hưởng đến sinh viên. Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn khủng hoảng ảnh hưởng đến toàn cầu, Việt Nam cũng không ngoại lệ thì việc tìm kiếm một việc làm tốt thật sự là khó khăn khi mà mỗi công ty lại có những yêu cầu cho mỗi công việc khác nhau. Vậy làm thế nào để đáp ứng được các yêu cầu của nhà tuyển dụng là vấn đề mang tính sống còn của sinh viên để có cơ hội tìm được một việc làmtốt.
Hiểu được vấn đề việc làm của thanh niên có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước nên Đảng, Nhà nước cũng đã có những chủ trương, chính sách thu hút người tài bằng nhiều biện pháp cũng như nhiều chế độ đãi ngộ để phát huy năng lực của họ. Đặc biệt cho thanh niên nói chung và cho sinhviênnóiriêng.Nghịquyếtsố25-NQ/TWcủaBanChấphànhTrungươngĐảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc triển khai các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên đã được các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương quan tâm thực hiện với nhiều hình thức khácnhau.
Ngày 19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐ- TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 trong đó nêu rõ mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hóa Chiến lược bằng các biện pháp, hành động cụ thể. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rõ, coi trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục - đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Đặc điểm côngty
Trong bất kỳ tổ chức nào con người cũng luôn là yếu tố đóng vai trò tiên quyết. Tuy nhiên, tuyển dụng và giữ lại những người tài giỏi có khả năng vận dụng kiến thức là một điều ngày càng khó. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của công ty.
Quy mô công ty như thế nào? Vị tí của công ty có thuận tiện cho việc đi làm hay không? Văn hóa công ty hay đội ngũ lãnh đạo như thế nào? Các chính sách của công ty sẽ ra sao? Đó là những câu hỏi mà bất cứ ứng viên nào khi tìm việc làm cũng quantâm.
Theo kết quả từ cuộc khảo sát “Xây dựng thương hiệu tuyển dụng” do Navigos Search thực hiện qua gần 5.000 nhân sự cao cấp đang làm việc tại các công ty trong nước và các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, gần 76% trong số những người được hỏi cho rằng đội ngũ lãnh đạo tốt ( về văn hóa công ty) là yếu tố quan trọng nhất để thu hút nhân tài. Thương hiệu tuyển dụng cũng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình thu hút nhân lực, qua kết quả 75,2% trong số những người tham gia khảo sát quan tâm; thương hiệu tuyểndụng được yêu thích cần có môi trường làm việc tốt về thể chất lẫn tinh thần, là yếu tố xếp thứ thứ hai trong số 4 yếu tố quan trọng nhất để tạo nên một thương hiệu tuyển dụng hấp dẫn.
Cũng theo kết quả từ cuộc khảo sát này, các chương trình hỗ trợ/ đào tạo/ phát triển nhân viên; lương, thưởng cao là hai yếu tố quan trọng tiếp theo để xây dựng một thương hiệu tuyển dụng được yêu thích, với 71.8% và 66.4% số người tham gia trả lời khảo sát. Công ty phải bảo đảm rằng nhân viên được đền bù tương xứng với năng lực của họ. Những người làm tốt đòi hỏi lương của họ phải xứng đáng với khả năng của mình. Tuy nhiên, chỉ có tiền thì không đủ thu hút những người giỏi.
Mỗi công ty phải có những cách riêng của mình để lôi cuốn nhân viên vào đặc thù của công ty, giúp nhân viên phát triển, làm cho công việc hoà hợp với cuộc sống riêng tư của nhân viên, và sắp xếp những chương trình khen thưởng với những hệ thống đánh giá rõ ràng và khách quan mới có thể thu hút được nhiều nhan tài để công ty pháttriển.
Điều kiện giađình
Điều đầu tiên ảnh hưởng đến quyết định chọn nơi làm việc của không ít sinh viên đó là điều kiện kinh tế gia đình. Đây là vấn đề có thể nói là làm cho sinh viên phân vân nhiều nhất khi chọn nghề, nhất là các bạn sinh viên ở tỉnh lẻ, vùng nông thôn. Nhiều bạn có ước muốn làm việc tại quê nhà nhưng vì kinh tế gia đình đành phải chọn làm việc tại những thành phố lớn để có thêm thu nhập giúp cải thiện cuộc sống bản thân và cho giađình.
Mặc khác, truyền thống gia đình luôn quan trọng với người dân Việt Nam nói riêng và người phương Đông nói chung. Chúng ta luôn bị ảnh hưởng của gia đình khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào. Nhiều ông bố, bà mẹ ép con học theo những ngành nghề mà cha ông mình từ trước đến giờ theo đuổi. Nếu sinh ra trong một gia đình có bố, mẹ, anh, chị làm bác sĩ, giáo viên, công an… thì các bạn sinh viên cũng thường thường bị "gò” vào cái "khuôn" ấy của giađình.
Một bạn trẻ phương Tây, tuy chỉ mới học phổ thông khi muốn vừa học vừa làm thêm để kiếm tiền thì luôn được cha mẹ ủng hộ, khuyến khích vì đấy là quyết định của chính bản thân bạn trẻ đó. Nhưng cũng trường hợp đó mà ở trong một gia đình Việt Nam thì sao? "Lo học cho giỏi để sau này thi đậu ĐH, ra trường thì muốn kiếm bao nhiêu tiền mà chẳng được", là câu nói của đa số phụ huynh hay những thành viên trong gia đình học sinh đó. Và điều phải làm của học sinh đó là chấp nhận, không có một thái độ gì cả, có thể là do "thói quen" vâng lời người lớn trong mọi quyếtđịnh.
Tương lai các bạn phải do chính bạn quyết định, bố mẹ là người đi trước, hiểu thế nào là tốt cho bạn nhưng không thể là người quyết định cho bạn được vì đơn giản bố mẹ không thể theo bạn đến suốt cuộc đời…
Tuy nhiên, mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Gia đình cũng chính là nhà tư vấn cho những dự định của bạn vì hơn ai hết họ hiểu những tính cách, phẩm chất của bạn hơn bất kỳ một người nào khác. Hãy tham vấn ý kiến của họ khi bạn muốn đưa ra một quyết định nào cho tương lai của mình. Những câu hỏi như: con muốn trở thành nhà thiết kế thời trang, bố mẹ thấy thế nào? Chắc chắn bố mẹ bạn sẽ phân tích những điều được và không được của bạn khi chọn nghề ấy. Những lời khuyên, nhận xét từ những người đi trước không bao giờ là thừa. Điều này tránh cho bạn sự lệch lạc trong định hướng nghề củamình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những nguyên lý của kinh tế học (tập 2, 2002) - NXB Thống kê
2. Trường ĐH kinh tế quốc dân (2002)- Kinh tế học vĩ mô - NXB Thống kê
3. TS. Trương Tấn Diệp (2001) – Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - NXB Thống kê
4. N.Gregory Mankiw (7th), Harvard University, Macroeconomics
7. 02/04/2015. Yếu tố nào thu hút nhân tài? [Trực tuyến]. Báo Dân trí. Đọc từ: http://tuyendung.com.vn/huongnghiep/5683-yeu-to-nao-thu-hut-nhan- tai.aspx ngày 08.04.2013.
8. 04/03/2014. Loay hoay bài toán nhân lực - việc làm [Trực tuyến]. Báo SàiGòn Giải Phóng Online. Đọc từ: http://laodong.com.vn/Viec-lam/Loay- hoay-bai-toan-nhan-luc-viec-lam/104397.bld ngày 17.03.2013.