0236.3650403 (221)

NGÀNH DỆT MAY ẤN ĐỘ: VỊ TRÍ CỦA ẤN ĐỘ TRONG THỊ TRƯỜNG DỆT MAY THẾ GIỚI - Phần 5


5.1 Tổng quan về thị trường dệt may thế giới:
 
Quay trở lại lịch sử của sự phát triển trong ngành công nghiệp dệt may thế giới bắt đầu ở Anh, bởi vì máy dệt, đan và quay sợi ban đầu được phát minh ra ở đó. Dần dần, cotton, len, lụa, và các nguyên liệu khác bắt đầu được sản xuất với số lượng cao trên toàn thế giới. Mặc dù thực tế là ngành công nghiệp đang có nguồn gốc ở Anh, nhưng từ thế kỷ 19 sản xuất các mặt hàng dệt may thông qua vào các khu vực như Bắc Mỹ và châu Âu khi quá trình bán hàng tại những nơi nàđi vào hoạt động đầy đủ (www.economywatch.com). Sau đó các nước như Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực này bằng cách tự động công nghiệp hóa nền kinh tế của họ. Trung Quốc, Hồng Kông và Ấn Độ sau đó đã trở thành nhà sản xuất dệt may hàng đầu do các yếu tố quan trọng như sự dồi dào lao động giá rẻ.
Theo thống kê, thị trường dệt may toàn cầu hiện nay đang sở hữu trị giá hơn 400 tỷ đô la. Ngành công nghiệp này đã đối mặt với cả những cơ hội cũng như cạnh tranh gay gắt trong một môi trường cạnh tranh như vậy. Nó cũng đã được dự báo rằng sản xuất dệt may trên toàn thế giới sẽ tăng 25% từ năm 2002 đến năm 2010 vàkhu vực châu Á sẽ có những đóng góp đáng kể nhất (http://www.economywatch.com). Đã có một số biện pháp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) để nâng đỡ và tăng cường cho lĩnh vực này. Trong 1995, WTO cải tạo chiến lược MFA của mình và thực hiện Hiệp định về Hàng dệt và Quần áo (ATC), xác định rằng các quốc gia thành viên WTO sẽ được thoát khỏi hạn ngạch hàng dệt may.
 
5.2 Thương mại quốc tế và thông tin về đối thủ cạnh tranh chính:
 
Ngày nay, thương mại dệt may toàn cầu là khoảng 500 tỷ đô la Mỹ, và dự kiến ​​sẽ tăng 800 tỷ đô la Mỹ vào năm 2010 (www.findarticles.com). Liên minh ChâÂu và Hoa Kỳ cùng nhau dẫn đầu tiêu thụ, 64% về quần áo và 39% hàng dệt may tại
2004 (Ấn Độ Brand Equity Foundation, 2006) .. Có những thị trường tiêu dùng quan trọng khác như Australia, Nhật Bản và New Zealand đặc biệt là các sản phẩm dệt may (Ấn Độ Brand Equity Foundation, 2006).
Các chế độ hạn ngạch phổ quát được đặt ra trong nhiều thập kỷ cuối cùng đã kết thúc vào ngày 01 Tháng 1 năm 2005, ngoại trừ vài nước nhỏ. Xoá bỏ các hạn ngạch đã đêm lại một biến đổi lớn trong nền kinh tế thế giới. Nó cũng giúp cho nhiều quốc gia đang phát triển như Ấn Độ đưa nền kinh tế của họ khỏi đói nghèo và giúp họ loại bỏ các vấn đề phức tạp như tình trạng thất nghiệp.
5.3 Kịch bản quốc tế về ngành công nghiệp dệt may:
Trong một thời gian rất dài, ngành công nghiệp dệt may thế giới đang tăng trưởng chậm nhưng đều đặn. Trong Năm 2007, ngành công nghiệp này tạo ra tổng doanh thu của Mỹ 1600 tỷ đô la Mỹ và đến năm 2012; sự mong đợi ngành công nghiệp này sẽ thể hiển một tỷ lệ tăng trưởng hàng năm là 4,3% tạo ra tổng doanh thu
2000 tỷ đô la Mỹ. (Datamonitor, 2007).
Lo sợ mất thị trường nội địa của mình, nhiều quốc gia như Mỹ, EU và Thổ Nhĩ Kỳ gần đây đã áp dụng hạn ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Xuất khẩu Ấn Độ xem đây là một cơ hội lớn để mở rộng kinh doanh của họ trên khắp các quốc gia và cũng hiểu được thực tế rằng xuất khẩu của Ấn Độ cũng sẽ được áp dụng hạn ngạch này nếu các quốc gia nhập khẩu cảm thấy cần bảo vệ thị trường trong nước của họ. Những câu hỏi cần được trả lời là dù xuất khẩu của Ấn Độ có thể được gánh bởi năng lực hiện có của thị trường toàn cầu? Cho dù có một khả năng rằng Ấn Độ trong tương lai có thể tạo ra một "ngách" cho chính nó? Và cho dù Ấn Độ có khả năng để tiếp thị sản phẩm của mình đúng cách? Tác giả đã trả lời cho những câu hỏi trong phân tích và thảo luận các phần. Các phần dưới đây sẽ mô tả các hoạt động của ngành may và thời trang Ấn Độ và tại hai thị trường lớn trên thế giới - Mỹ & EU.
Ngành công nghiệp dệt may của Ấn Độ đang cho thấy tốc độ tăng trưởng như một hiện tượng gần đây và sắp bắn những phát súng lớn! Ngành công nghiệp dệt may của Ấn Độ đăng ký gia tăng mạnh mẽ trong việc bán hàng xuất khẩu sau khi bãi bỏ chế độ hạn ngạch. Hiện nay, Ấn Độ sở hữu 4% thị phần toàn cầu sẽ tăng trưởng ít nhất 8% vào năm 2010 và sẽ có tổng trị giá 50 tỷ đô la Mỹ (Texsummit, 2007).
5.3.1 Sự thể hiện của Ấn Độ tại thị trường Mỹ:
Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Ấn Độ sau khi loại bỏ hạn ngạch, trong khoảng thời gian từ tháng Giêng đến tháng Tư năm 2005 đã tăng 27% trong khi ngành công nghiệp Trung Quốc trong cùng kỳ tăng 52% (Chandra 2006). Trong chín tháng đầu năm 2005, thị phần của ngành công nghiệp dệt may của Ấn Độ tăng từ
4,4% lên 5,2% và cổ phiếu này dự kiến ​​sẽ tăng lêđến 15% vào năm 2008. (IBEF, ICRA 2006) Theo ông Harish Ahuja, Ấn Độ đã thực hiện rất tốt trong kinh doanh dệt may nội địa. Ông giải thích rằng có những triển vọng tươi sáng cho ngành công nghiệp dệt may của Ấn Độ trong lĩnh vực kinh doanh dệt may nội địa có tính quốc tế và hy vọng rằng thị trường này sẽ tăng lêđến 10 tỷ đô la Mỹ trong năm 2010.
Verma (2002) tin rằng tăng trưởng trong lĩnh vực này được tiếp cận bởi sự nâng cấp giá trị chứ không phải từ việc mở rộng công suất. Theo các nguồn tin công nghiệp, xếp hạng đầu tiên trong ngành dệt nước nhà bị chiếm đóng bởi các khăn terry, thứ hai bởi những tấm thảm phòng tắm và sau đó là những mặt hàng trang trí khác.
 Sự gia tăng sử dụng rộng rãi các khung dệt có chiều rộng đã dẫn đến sự gia tăng của xuất khẩu trong phân khúc này. Sau Trung Quốc và Mexico, Ấn Độ là nước xuất khẩu lớn thứ ba của hàng dệt may vào Mỹ Gần đây; URV của Trung Quốc đã giảm 14% trong khi Ấn Độ đã duy trì URV của nó (Texsummit, 2007 & Liên đoàn của ngành công nghiệp dệt may Ấn Độ (CITI).
5.3.2 Sự thể hiện của Ấn Độ tại thị trường châu Âu:
Trong các thị trường EU, sau khi chế độ hạn ngạch xuất khẩu của Ấn Độ tăng 16% và thị phần tăng từ 6,0% lên 7,3% trong chín tháng đầu của năm 2005. Đến cuối năm 2008 dự kiến ​​là 9,0% (IBEF, ICRA Presentation (2006). Xuất khẩu dệt may Ấn Độ cũng cho thấy sự tăng trưởng ấn tượng trong các thị trường EU và tăng 16% và đồng thời tăng thị phần từ 6,0% đến 7,3% trong chín tháng đầu năm 2005. Dự kiến ​​đến năm 2008, thị phần của ngành công nghiệp dệt may của Ấn Độ sẽ tăng lên 9% (IBEF, ICRA trình bày, năm 2006). Ấn Độ như trong trường hợp của Mỹ được đặt vào vị trí thứ ba trong danh sách các nhà xuất khẩu dệt may vào thị trường EU, sau Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi vì những loại thuế EU áp cho hàng nhập khẩu Trung Quốc, xuất khẩu dệt may Ấn Độ nhận được những thuận lợi, do đó UVR của Trung Quốc giảm 40% và UVR Ấn Độ tăng 6% ( Texsummit, 2007).
Khăn Terry là một trong những xuất khẩu nổi tiếng nhất của ngành công nghiệp dệt may Ấn Độ và rất phổ biến trên thị trường EU. Nhưng giai đoạn 1995-2007, cho thấy các xu hướng giảm dần ở cả thị trường Mỹ và EU mà chủ yếu là do sự cứng nhắc về giá (FICCI, 2007).
Ngành công nghiệp dệt may của Ấn Độ đang đối mặt với các mối đe dọa từ nhiều quốc gia khác ngoài Trung Quốc, như Pakistan, Bangladesh và Việt Nam. Có báo cáo cho thấy rằng trong năm 2007, Ấn Độ là nước xuất khẩu lớn thứ tư của Mỹ, Pakistan được phát hiện thứ hai, xếp trên Ấn Độ (FICCI, 2007). Công ty Ấn Độ cũng đang thực hiện rất tốt, trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Có rất nhiều công ty hoạt động ở Singapore, Nhật Bản, và Indonesia. Các nỗ lực đang cũng đang được thực hiện để phát triển thương mại giữa Ấn Độ và các nước Trung Đông khác nhau như Bahrain.
Gần đây, nhiều nhà sản xuất dệt may nước nhà đã bắt tay vào việc giới thiệu các bộ sưu tập bằng cách sử dụng các vật liệu hữu cơ. Báo cáo gần đây nhất cho thấy rằng Thổ nhĩ kỳ đã bị Ấn Độ vượt qua, và là nước sản xuất bông lớn nhất hiện nay (Panthaki, 2008). Cotton hữu cơ là bông được trồng mà không sử dụng thuốc trừ sâu hoặc hóa chất, và được trồng trong đất virgin. Các nhu cầu về bông hữu cơ gia tăng rất nhiều tất cả các nơi trên thế giới và nhiều nhất ở các nước châu Âu. Công ty ở Mỹ (Pottery Barn, West Elm) cũng sẽ cần bông hữu cơ. Một nguyên liệu thô quan trọng cho hàng dệt may, đang chiếm được cầu trong thị trường xuất khẩu, là đay. các nhà nghiên cứu đang thực hiện từng bước khác nhau, để đảm bảo rằng chất lượng của sợi đay xuất khẩu từ Ấn Độ, phải phù hợp với các tiêu chuẩn thị trường toàn cầu.
Nguyễn Thị Tuyên Ngôn - Khoa QTKD
 
Nguồn dịch: The Indian textile industry: International Competitiveness By Gunja Saluja 2008 - The University of Nottingham