0236.3650403 (221)

MỘT VÀI NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ


BÀI 2

MỘT VÀI NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM

VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Th. S Phạm Thị Thu Hương

Cho đến giữa những năm 1970 có rất ít bằng chứng thực nghiệm cho bất kỳ mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế và thậm chí có những nghi ngờ trong mối quan hệ này. Cũng giống như các mô hình lý thuyết , kết quả của những nghiên cứu thực nghiệm thay đổi qua thời gian từ quan điểm truyền thống được biết đến rộng rãi đến quan điểm về mối quan hệ cùng chiều giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế đến mối quan hệ phi tuyến tính trong những năm gần đây. Bây giờ nhiều nhà kinh tế tin rằng lạm phát thấp nhưng tích cực là tốt cho việc cải thiện một nền kinh tế nhất định.

 Gillman và Nakow (2003) nghiên cứu ảnh hưởng của lạm phát trong một nền kinh tế tiền tệ tăng trưởng nội sinh. Kết quả chỉ ra rằng lạm phát gia tăng thì sẽ làm tăng tỷ lệ tiền lương thực tế đến lãi suất thực tế và do đó làm gia tăng việc sử dụng các nguồn lực vật chất liên quan đến nguồn nhân lực trên tất cả các lĩnh vực.

            Tuy nhiên, quan điểm truyền thống về quan điểm này đã thay đổi khi lạm phát cao và kinh niên đã xuất hiện ở nhiều quốc gia vào những năm 1970. Kết quả là, các nhà nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra rằng lạm phát có tác động tiêu cực đến tăng trưởng sản lượng. Fisher (1993) đã điều tra nghiên cứu mối liên hệ giữa lạm phát và tăng trưởng qua phân tích chuỗi thời gian, qua khu vực, đặt dữ liệu cho nhóm người tham gia hội thảo cho một số lượng lớn quốc gia. Kết quả chính của công trình này là có sự tác động tiêu cực của lạm phát lên tăng trưởng. Fisher(1993) lập luận rằng lạm phát làm cản trở đến việc phân phối có hiệu quả các nguồn tài nguyên do những thay đổi bất lợi đối với giá cả tương quan. Đồng thời giá cả tương quan xuất hiện trở thành một trong những kênh quan trọng nhất trong tiến trình ra quyết định hiệu quả.

            Barro (1996) phân tích tác động của lạm phát và các biến khác như khả năng sinh sản, nền dân chủ và các yếu tố khác lên tăng trưởng kinh tế trong nhiều quốc gia khác nhau trong thời gian 30 năm. Ông sử dụng hệ thống của phương trình hồi quy, trong đó các yếu tố quyết định khác của tăng trưởng được giữ ở mức không đổi. Để ước lượng sự tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế mà không xem xét các vấn đề nội sinh của lạm phát, nó bao gồm lạm phát như là biến giải thích theo từng thời kỳ cùng với các yếu tố khác của tăng trưởng kinh tế. Kết quả chỉ ra rằng có mối quan hệ tiêu cực giữa lạm phát và tăng trưởng với hệ số tương quan -0,024.

Singh và Kalirajan (2003) sử dụng dữ liệu hàng năm từ Ấn độ trong giai đoạn 1971- 1998 để phân tích ngưỡng ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả cho thấy rõ ràng rằng sự gia tăng trong lạm phát từ bất kỳ mức nào đều có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng đáng kể có thể đạt được bằng việc tập trung chính sách tiền tệ hướng vào duy trì giá cả ổn định.

            Anhdres và Hernando (1997) đã thu được một mối quan hệ tiêu cực có ý nghĩa giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong thời gian dài. Lạm phát làm giảm mức độ đầu tư cũng như hiệu quả sử dụng các yếu tố. Nó có một tác động tiêu cực nhất thời lên tốc độ tăng trưởng dài hạn và lần lượt tạo ra sự sụt giảm trong thu nhập bình quân đầu người.  Họ kết luận rằng chi phí của lạm phát trong dài hạn là lớn và việc nỗ lực kiềm chế lạm phát sẽ phải đánh đổi trong điều kiện tăng trưởng kinh tế tốt hơn.

            Faria và Carneiro (2001) điều tra nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và đầu ra trong một nền kinh tế đối mặt với những cú sốc lạm phát cao liên tục. Các tác giả này áp đặt cấu trúc tối thiểu và sử dụng ý tưởng rằng những cú sốc lạm phát có thể phân ra thành những thành phần tạm thời và thành phần dài hạn. Kết quả chỉ ra rằng trong dài hạn, sự phản ứng của đầu ra đối với một cú sốc lạm phát dài hạn trong một đất nước có lạm phát cao là không khác đáng kể so với con số không.

            Gần đây, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng sự tác động lẫn nhau giữa tăng trưởng và lạm phát là phi tuyến tính và  lõm. Bruno và Easterly (1995) xác định một thời kỳ khủng hoảng lạm phát như là một khoảng thời gian khi tỷ lệ lạm phát vượt quá 40%, cố gắng để đánh giá nước đó thực hiện như thế nào trước , trong và sau thời kỳ khủng hoảng. Kết quả chỉ ra rằng ở mức lạm phát cao hơn, có một mối quan hệ tiêu cực giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, theo đó, chi phí lạm phát sẽ cao hơn . Tại mức lạm phát thấp và vừa phải, kết quả là không rõ ràng và cho thấy rằng không có mô hình phủ hợp. Họ tin rằng sẽ có sự hồi phục của nền kinh tế nếu giảm lạm phát thành công sau khủng hoảng.

Sarel (1995) sử dụng dữ liệu của 87 quốc gia cũng củng cố ý kiến rằng lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ phi tuyến tính. Ông thấy rằng 8% là ngưỡng thích hợp của lạm phát. Dưới ngưỡng này lạm phát ảnh hưởng không đáng kể thậm chí là ảnh hưởng tích cực , trong khi đó, nếu lạm phát trên ngưỡng này, nó có ảnh hưởng tiêu cực và ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.

            Khan và Senhadji (2001) phân tích ngưỡng tác động giữa lạm phát và tăng trưởng bằng việc sử dụng tập hợp dữ liệu bao gồm 140 quốc gia từ giai đoạn 1960 – 1998. Họ xem xét mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng cho các nước phát triển và đang phát triển một cách riêng biệt. Kết quả thực nghiệm cho thấy có sự tồn tại của một ngưỡng ngoài mức lạm phát gây ra một tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Mức lạm phát dưới ngưỡng lạm phát không có tác động hoặc tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả cũng chỉ ra rằng ngưỡng này thì nhỏ cho các nước đã phát triển (1% - 3%) , được  so sánh với các nước đang phát triển (tương ứng 11-12%) và những ước lượng này có ý nghĩa thống kê.

Hwang và Wu (2011) bằng việc sử dụng phương trình tính toán tăng trưởng như là cơ sở của mô hình, họ nghiên cứu ngưỡng ảnh hưởng tích cực của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc. Họ nhận thấy rằng ngưỡng lạm phát có tác động đáng kể và mạnh mẽ. Trên mức ngưỡng 2,5%, gia tăng mỗi một điểm phần trăm trong tỷ lệ lạm phát sẽ cản trở tăng trưởng kinh tế 0,61%, dưới ngưỡng này, gia tăng mỗi một điểm trong tỷ lệ lạm phát sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế 0,53%. Điều này chỉ ra rằng lạm phát này gây hại cho tăng trưởng kinh tế khi lạm phát vừa phải có lợi cho tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc.

            Có một vài nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng ở Châu Phi . Tabi và Ondoa (2001) nghiên cứu về mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế, lạm phát và tiền trong lưu thông. Họ phân tích tầm quan trọng chủ yếu của các biến số tiền tệ lên tăng trưởng kinh tế ở Cameroon. Bằng việc sử dụng dữ liệu từ năm 1960 – 2007, họ xây dựng mô hình VAR  để xác định mối liên hệ giữa các biến số nói trên. Kết quả chỉ ra rằng tiền trong lưu thông gây ra sự tăng trưởng, và tăng trưởng gây ra lạm phát. Kết luận thú vị là sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông không nhất thiết gây ra sự gia tăng của mức giá chung.

            Chimobi (2010) cố gắng để xác định nếu có mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát bằng việc sử dụng chỉ số giá tiêu dùng của Nigeria từ 1970 – 2005. Ông ta kết luận rằng trong dài hạn không có mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Nigeria nhưng trong ngắn hạn thì lạm phát có ảnh hưởng đến tăng trưởng.

Nell (2000) nghiên cứu chi phí và lợi ích của lạm phát bằng cách phân chia kinh nghiệm lạm phát của Nam Phi thành 4 thời kỳ. Nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát là mối quan hệ phi tuyến tính. Trong khi lạm phát ở mức một con số là có lợi đối với tăng trưởng trong khi chi phí trong điều kiện tăng trưởng thấp lại ở mức cao.

            Leshero (2012) sử dụng phương pháp hồi quy được phát triển bởi Khan và Senhadji (2001) chỉ ra rằng ngưỡng lạm phát là 4% cho các nước Nam Phi. Tại mức lạm phát dưới ngưỡng này, có mối quan hệ tích cực giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế và mối quan hệ này là không đánh kể. Nhưng tại mức lạm phát trên ngưỡng này, mối quan hệ này là tiêu cực và đáng kể.