MỘT SỐ DẤU HIỆU NHẬN BIẾT RỦI RO TÍN DỤNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG
1.Một số dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Các chuyến thăm khách hàng thường xuyên là cách tốt nhất để phát hiện nhanh chóng những dấu hiệu này. Những chuyến thăm luôn phải có việc kiểm tra tình hình thực tế và sổ sách của khách hàng. Sau đây là một số dấu hiệu thường thấy từ phía khách hàng cần được kiểm tra:
-Từ báo cáo tài chính:
Ngân hàng không nhận được báo cáo tài chính từ người vay một cách kịp thời.
Khả năng thanh khoản giảm
Những thanh đổi nhanh chóng của TSCĐ
Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ đông của công ty.
Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng
Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và thu nhập ròng
Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm.
Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh
Thay đổi về phạm vi kinh doanh.
Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn cung cấp
-Từ hoạt động kinh doanh.
Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung ứng chính
Thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể làm mất năng lực sản xuất hiện hành.
-Những dấu hiệu liên quan đến công ty:
Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi
Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự chắp vá.
Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc “ với kinh doanh có những rủi ro quá mức
Đặt giá bán hàng hóa và dịch vụ một cách không thực tế
Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt.
Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các điều kiện kinh tế.
Tuy nhiên khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không đáng kể, nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì cán bộ tín dụng cần xem xét, đánh giá kỹ để có thể hạn chế và giảm thiểu các tác động của rủi ro tín dụng gây nên.
2.Tác động của rủi ro tín dụng:
-Đối với hoạt động ngân hàng:
Rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng: khi có một khoản nợ được coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút ngay, một phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong khi vẫn phải trả lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản lý, giám sát phát sinh. Mặt khác nếu các khoản nợ quá hạn chuyển thành khó thu hoặc không thu được thì việc xử lý tài sản đảm bảo luôn gặp khó khăn về pháp lý và định giá nên trường hợp ngân hàng có thể thu hồi được nợ khi phát mại tài sản là rất khó xảy ra.
Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của ngân hàng mà cón làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Khi đó ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường lien ngân hàng với lãi suât cao, bởi huy động từ tiền gởi dân cư thường mất rất nhiều thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài với việc hàng loạt người gởi tiền rút tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn khác nhau, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm trọng. Hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng, điều này sẽ ảnh hưởng đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn và gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác.
-Đối với nền kinh tế:
Hoạt động của NHTM mạng tính xã hội hóa cao vì nó lien quan đến nhiều ngành nghề và nhiều thành phần khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy khi một ngân hàng bị phá sản nó sẽ gây ảnh hưởng đến các bộ phận còn lại trong xã hội, trước tiên là các ngân hàng khác, bởi có quan hệ mật thiết với nhau trong hoạt động nên một ngân hàng sụp đỗ có thể dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng còn lại. Ngoài ra việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn, người gửi tiền không lấy lại tiền được. Những hậu quả này còn giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, những như hiệu lực của các chính sách tiền tệ của Chính phủ./.
Nguyễn Thị Minh Hà