MẤT MÁT LỚN CỦA QUỸ QUẢN LÝ VỐN DÀI HẠN
Quỹ quản lý vốn dài hạn (LTCM), là một quỹ phòng ngừa được hình thành vào giữa những năm 1990, luôn luôn trên thế chấp những giao dịch của nó. Chiến dịch đầu tư của quỹ phòng ngừađược biết đến như là sự kinh doanh chênh lệch giá trên tính hội tụ. Một ví dụ rất đơn giản về những điều mà quỹ có thể làm theo quy tắc này. Nó sẽ tìm 2 trái phiếu, X và Y, phát hành bởi cùng 1 công ty, cam kết trả cùng mức lợi tức, với X có tính thanh khoản thấp hơn Y (hay X ít được mua bán hơn trên thị trường). Thị trường luôn luôn xác định giá trị dựa trên tính thanh khoản. Vì vậy giá của X sẽ thấp hơn giá của Y. LTCM sẽ mua X, bán Y và chờ, mong đợi cho giá của hai trái phiếu này hội tụ tại 1 thời điểm trong tương lai.
Khi lãi suất tăng, công ty mong đợi cả hai trái phiếu cùng có sự về dịch chuyển giá xuống 1 lượng như nhau để mà khoản thế chấp công ty đã trả trên trái phiếu X sẽ giống như món thế chấp mà nó đã nhận được trên trái phiếu Y. Tương tự như vậy, khi lãi suất giảm, LTCM mong đợi cả hai trái phiếu có mức giá tăng lên 1 lượng như nhau để phần thế chấp nó đã nhận được từ trái phiếu X sẽ tương đương với phần thế chấp nó đã trả cho trái phiếu Y. Vì nó mong đợi sẽ không có sự chảy ra đáng kể của nguồn vốn quỹ như là kết quả của cam kết thế chấp.
Vào tháng 8 năm 1998, Nga vỡ nợ và nó dẫn đến khái niệm “flight to quality”- chuyến bay đến chất lượng trên thị trường vốn. Một kết quả cho thấy những nhà đầu tư định giá công cụ có tính thanh khoản cao hơn bình thường và khoảng cách giữa giá của công cụ có tính thanh khoản và không thanh khoản trên danh mục của LTCM tăng lên đáng kể. Giá của trái phiếu LTCM đã mua trước đây đi xuống và giá những trái phiếu đã bán trước đây tăng lên. Công ty bị yêu cầu phải đặt thế chấp cho cả hai. Công ty sử dụng đòn bẩy cao và không thể chi trả theo yêu cầu của cam kết thế chấp. Kết quả là những vị thế của công ty phải đóng, LTCM mất khoảng 4 tỉ đô. Nếu công ty sử dụng đòn bẩy thấp hơn nó có thể sống sót trên chuyến bay đến chất lượng và có thể chờ cho giá của trái phiếu có tính thanh khoản và không thanh khoản di chuyển đến gần nhau hơn.
CH. Lê Nguyễn Ngọc Quyên – Khoa QTKD
Nguồn: John Hull, Options, Futures and Other Derivatives (7th edition), page 30