0236.3650403 (221)

LÝ THUYẾT VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI


Đỗ Văn Tính-Khoa QTKD

Thị trường ngoại hốilà thị trường quốc tế, trong đó đồng tiền của quốc gia này có thể đổi lấy đồng tiền của quốc gia khác.

Tỷ giá hối đoáilà giá cả một đơn vị tiền tệ của một nước được tính bằng tiền của nước khác. Hay nói khác đi, là số lượng đơn vị tiền tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ.

Riêng ở Mỹ và Anh thuật ngữ này được sử dụng theo nghĩa ngược lại: Số lượng đơn vị ngoại tệ (nước ngoài) cần thiết để mua một đồng đola hoặc một đồng bảng Anh.

Quy ước:

E: Tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ (tỷ giá hối đoái của đồng tiền có liên quan trong thị trường ngoại hối đang xem xét): Cho biết muốn có một đồng ngoại tệ thì cần phải có bao nhiêu đồng nội tệ.  (Ví dụ: EUSD/VNĐ = 21.300)

e. Tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ tính theo đồng ngoại tệ: Cho biết muốn có một đồng nội tệ thì có bao nhiêu đồng ngoại tệ:            

Nếu      E tăng: đồng nội tệ  bị giảm giá

E giảm: đồng nội tệ  lên giá

            E gọi là tỷ giá hối đoái danh nghĩa: là tỷ lệ mà tại đó một người đổi đồng tiền của một quốc gia này lấy một đồng tiền quốc gia khác.

            Tỷ giá hối đoái thực tế (còn gọi là sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước - Er): là tỷ lệ mà tại đó một người trao đổi hàng hoá và dịch vụ của nước này lấy hàng hoá và dịch vụ của nước khác.

 

Er = E .

CPI 0: Giá cả của hàng hoá trên thị trường thế giới.

 

CPI:  Giá cả của hàng hoá trên thị trường trong nước.

            hoặc     CPI : Nội tệ

                        CPI0: Ngoại tệ

Các hệ thống tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái cố định: Bretton Wooods (1944 - 1971)

Được xác định trên cơ sở ngang bằng nhau về sức mua.

Là tỷ giá hối đoái chính thức mà NHTW cam kết duy trì ở một mức xác định nào đó trong một khoảng thời gian dài và được chính phủ đồng ý công bố.

Muốn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, thì NHTW phải thường xuyên can thiệp vào thị trường ngoại hối thông qua việc mua bán vàng và ngoại tệ (Điều này buộc NHTW phải có một lượng dự trữ lớn). Tuy nhiên, gặp phải khó khăn đó là:

Dự trữ không tương xứng.

Do tỷ lệ tăng trưởng về xuất khẩu và nhập khẩu, lạm phát ở các nước khác nhau làm thay đổi giá trị tương đối của tiền tệ và cần có sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường xuyên hơn.

Các cuộc khủng hoảng mang tính đầu cơ: Dự trữ và đầu cơ ngoại tệ xảy ra khi có đồng tiền được đánh giá quá cao.

Tỷ giá hối đoái thả nổi (linh hoạt - được áp dụng từ năm 1971 - 1980)

Là tỷ giá hối đoái được xác định hoàn toàn bởi quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, không có sự can thiệp của chính phủ.

Như vậy, tỷ giá hối đoái biến động mạnh sẽ ảnh hưởng đến hoạt động chung của nền kinh tế.

Hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý (không thuần nhất - Được áp dụng từ năm 1980 đến nay)

Là tỷ giá hối đoái được phép thay đổi cho phù hợp với các điều kiện thị trường ở một phạm vi nhất định, khi vượt ra ngoài phạm vi đó thì chính phủ sẽ can thiệp.

Tóm lại, vấn đề thiết lập một hệ thống tỷ giá hối đoái như thế nào còn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Đây là lĩnh vực nóng bỏng trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Mỗi quốc gia cần thiết phải có cách thức ứng phó cho phù hợp với một thế giới đầy biến động.

Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá hối đoái biến tướng từ hai hình thức cơ bản là cố định và thả nổi. Trong thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau càng tăng, việc lựa chọn một chế độ ngoại hối phù hợp với bối cảnh quốc tế, điều kiện cụ thể từng bước và đáp ứng điều chỉnh kinh tế vĩ mô, nhất là với các nước đang thực hiện chuyển đổi cơ chế thực sự là vấn đề nan giải.

* Luận cứ lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái

Sự quản lý tối ưu của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của các nhà hoạch định chính sách, vào nguồn gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế và đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế đang xét. Vì vậy các giả thiết khác nhau về nhân tố đó có thể dẫn đến sự thay đổi về mức độ tối ưu của chế độ tỷ giá hối đoái. Vấn đề tiêu chuẩn tối ưu về nguyên tắc cần phải được cụ thể hoá. Trong thực tế các phân tích hiện đại đã tập trung vào tiêu chuẩn tương đối hẹp của ổn định kinh tế vĩ mô, được định nghĩa là cực tiểu sai phương của tổng sản phẩm thực, mặt bằng giá hoặc tiêu dùng thực trước cơn sốt ngẫu nhiên có tính chất tạm thời.

Một kết quả quan trọng của nghiên cứu lý thuyết là nói chung tỷ giá hối đoái cố định cực đoan lẫn tỷ giá hoàn toàn linh hoạt đều không phải là tối ưu đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Thật vậy một mức độ tương đối của sự linh hoạt lại có nhiều khả năng thành công hơn trong việc ổn định nền kinh tế khi cần phản ứng lại các cơn sốc ngẫu nhiên. Các tỷ giá hối đoái " có quản lý " hoặc " cố định linh hoạt" trở thành chế độ tỷ giá phổ biến nhất ở các nước đang phát triển, loại cơn sốc mà nền kinh tế thường phải đối phó trở thành vấn đề cốt lõi cần xem xét khi định liệu tỷ giá hối đoái cố định hay điều chỉnh. Các nghiên cứu trước đây đã nhận dạng một số tiêu chuẩn quản lý để phản ứng lại các cơn sốc trong nước. Các cơn sốc nội địa đòi hỏi áp dụng. Tỷ giá hối đoái cố định hay linh hoạt phụ thuộc vào cơn sốc là tiền tệ hay thực tế khi cơn sốc là tiền tệ thì quan điểm xưa nay là duy trì tỷ giá cố định sẽ co hiệu lực hơn trong việc ổn định tổng sản phẩm. Vì cung tiền tệ là biến nội sinh dưới chế độ tỷ giá hối đoái, các đột biến trong thị trường tiền tệ nội địa đơn giản sẽ được hấp thụ bởi thay đổi của dự trữ ngoại tệ mà không ảnh hưởng đến các điều kiện cung cầu của thị trường hàng hoá, là nơi quy định mức độ biến động kinh tế. Đổi lại khi cơn sốc là thực tế thì tỷ giá hối đoái cần phải được điều chỉnh ổn định tổng sản phẩm bằng cách tạo nên (hoặc giảm) cầu bên ngoài. Nói chung, theo mục tiêu của chính sách nhằm vào ổn định tổng sản phẩm trước các cơn sốc tạm thời thì tỷ giá hối đoái cần phải được điều chỉnh khi cơn sốc xuất phát từ bên ngoài hoặc từ thị trường.

Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái: một số tiêu chuẩn quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên nền kinh tế cũng như đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế. Tuy vậy trong thực tế khó mà áp dụng đó cho các trường hợp cụ thể. Các khó khăn đó không những lên quan đến các vấn đề thực tiễn, sự nhận biết nguồn gốc các cơn sốc và các đặc trưng cơ cấu mà còn liên quan đến mâu thuẫn tiềm tàng giữa các mục tiêu chính sách khác nhau. Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp còn phụ thuộc vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra. Các nghiên cứu về các lợi thế của tỷ giá hối đoái cố định và linh hoạt hầu như là dành cho trường hợp một nền kinh tế nhỏ không trải qua lạm phát cao và nói chung ở trạng thái cân bằng ngoại và chịu tác động của các cơn sốc tạm thời. Cân bằng tập trung vào ổn định tổng sản phẩm, thay cho cân bằng cán cân thanh toán quốc tế làm chức năng hấp thụ các cơn sốc, để triệt tiêu tác động của các thay đổi đột biến lên trên tổng sản phẩm. Tuy vậy, mâu thuẫn của chính sách có thể xảy ra khi cán cân thanh toán quốc tế cũng được coi là mục tiêu chính sách. Mâu thuẫn này đặc biệt rõ nét ở các nước đang phát triển, là những nước thường thiếu dự trữ ngoại tệ. Nếu vị trí cán cân thanh toán quốc tế tạo nên sự hạn chế thì tỷ giá hối đoái cần phải được dùng như là công cụ để tạo mục tiêu cán cân thanh toán quốc tế thay đổi cho ổn định tổng sản phẩm. Mặt khác khi lạm phát là vấn đề nổi lên hàng đầu thì tỷ giá hối đoái có thể là chức năng hỗ trợ cho việc ổn định mặt bằng giá cả.

QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VÀ TỶ GIÁ THEO HIỆU ỨNG FISHER

Lý thuyết ngang giá lãi suất:Mối quan hệ giữa lãi suất trên thị trường tiền tệ với tỷ giá trên thị trường hối đoái sẽ được hiểu rõ thông qua việc nghiên cứu hiệu ứng Fisher quốc tế (International Fisher Effect) và lý thuyết ngang giá lãi suất. Hai lý thuyết này khác nhau ở các hàm ý. Lý thuyết ngang giá về lãi suất chú ý luận giải vì sao tỷ giá kỳ hạn khác với tỷ giá giao ngay và mức độ chênh lệch sẽ có. Lý thuyết này liên quan đến một thời điểm nhất định (tỷ giá kỳ hạn), khẳng định tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng sự sai biệt trong lãi suất.

Theo lý thuyết ngang giá về lãi suất, đồng tiền của một quốc gia nào đó có lãi suất thấp hơn thì nhất định sẽ là bù kỳ hạn cho hợp đồng kỳ hạn đối với đồng tiền của một quốc gia nọ có lãi suất cao hơn. Nói cách khác, trừ kỳ hạn hoặc bù kỳ hạn trên giá kỳ hạn là xấp xỉ tương đương với chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Ngược lại, hiệu ứng Fisher quốc tế chú trọng đến việc tỷ giá giao ngay của một đồng tiền sẽ thay đổi theo thời gian, khẳng định rằng tỷ giá giao ngay sẽ thay đổi theo chênh lệch lãi suất giữa hai nước.

Từ phân tích theo lý thuyết ngang giá lãi suất và hiệu ứng Fisher quốc tế, có thể thấy rằng lãi suất là công cụ giúp các nhà quản trị tài chính dự đoán và xác định tỷ giá trong tương lai để hoạch định chiến lược phòng chống rủi ro và chiến lược kinh doanh hiệu quả. Lãi suất đóng vai trò quan trọng trên thị trường hối đoái bởi vì các khoản tiền gởi lớn được buôn bán tại đó đều được trả lãi, mỗi khoản có một lãi suất, tùy theo đồng tiền mà nó được định danh. Lợi tức của các khoản tiền gởi được mua bán trên thị trường hối đoái phụ thuộc vào lãi suất và các thay đổi dự kiến của tỷ giá hối đoái.

Sự cân bằng thị trường hối đoái đòi hỏi sự ngang bằng về tiền lãi, điều kiện mà theo đó lợi tức dự kiến của các khoản tiền gởi của hai loại tiền bất kỳ là tương đương thì được đo bằng một loại tiền (nghĩa là đo bằng các đơn vị có thể so sánh với nhau được). Chỉ khi tất cả các tỷ suất lợi tức dự kiến đều bằng nhau, tức là khi đó điều kiện ngang bằng tiền lãi, thì sẽ không có tình trạng dư cung về một số dạng tiền gởi nào đó và cũng không có tình trạng dư cầu về một số loại tiền gởi khác. Thị trường hối đoái sẽ cân bằng khi không một loại tiền gởi nào ở trong tình trạng dư cầu hoặc dư cung. Do vậy, có thể nói rằng thị trường hối đoái sẽ cân bằng khi có điều kiện ngang bằng về tiền lãi.

Khi phân tích lãi suất tác động đến tỷ giá, chúng ta dựa trên nguyên tắc cetacis paribas, nghĩa là khi nghiên cứu tác động của một nhân tố thì chúng ta cố định các nhân tố khác. Đó là cách làm để đơn giản hóa việc phân tích. Tuy nhiên, các yếu tố có tác động lẫn nhau, vì vậy ảnh hưởng đồng thời của chúng đối với vấn đề nghiên cứu rất phức tạp. Phân tích hồi quy thường được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng đã qua của một hay nhiều yếu tố đối với đối tượng nghiên cứu. Điều này hàm ý là sự thay đổi về tỷ giá hối đoái tương lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố thay vì chỉ phụ thuộc vào lãi suất. Do đó, trong khi lý thuyết ngang bằng tiền lãi có vẻ hợp lý, thực tế không luôn luôn xảy ra như vậy. Các ảnh hưởng khác có thể bù trừ các ảnh hưởng của một nhân tố nào đó. Dù sao chăng nữa, lý thuyết ngang giá lãi suất có tầm quan trọng đến độ cho phép người ta dùng nó để khái quát ảnh hưởng của các nhân tố đến việc thay đổi dự kiến của tỷ giá.

Khi nghiên cứu phân tích, chúng ta thường né tránh các vấn đề phức tạp có liên quan đến nội dung nghiên cứu bằng cách giả định “nếu mọi điều kiện khác đều như nhau”, tuy nhiên khi xem xét các trường hợp cụ thể, thì thấy rằng “mọi điều kiện khác” thường không như nhau. Trong thực tế, tỷ giá thị trường thường lệch khỏi tỷ giá được hình thành trên cơ sở ngang giá lãi suất, bởi lẽ trạng thái cân bằng lãi suất của tỷ giá chỉ tồn tại trong một số điều kiện nhất định như chu chuyển vốn trên thị trường tài chính phải hoàn toàn tự do, chi phí giao dịch bằng không (0), rủi ro trong đầu tư vào các tài sản tài chính bằng nhau…Trong các nền kinh tế, các điều kiện này rất khó tồn tại như nhau làm cho mối quan hệ ngang giá lãi suất không thể được duy trì chính xác mọi lúc, mọi nơi. Cho dù ngang giá lãi suất có thể không được duy trì trong thực tế, thì nó vẫn có thể đóng một vai trò hữu ích trong phân tích kinh tế. Thứ nhất, người ta có thể sử dụng tỷ giá xác định theo ngang giá lãi suất như là chuẩn để quyết định xem đồng tiền của một nước là dưới giá hay quá giá so với đồng tiền khác. Thứ hai, người ta có thể thường xuyên làm những so sánh quốc tế có ý nghĩa các số liệu kinh tế, sử dụng tỷ giá xác định theo ngang giá lãi suất hơn là tỷ giá do thị trường xác định.

Những điều kiện diễn giải trên cho thấy rằng, sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái dự kiến trong tương lai phụ thuộc vào các nguyên nhân kinh tế của sự thay đổi về lãi suất. Chúng ta thấy các tỷ giá hối đoái luôn luôn điều chỉnh để duy trì sự ngang bằng tiền lãi. Làm thế nào để điều chỉnh tỷ giá hối đoái? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ so sánh các mối quan hệ có khả năng khác nhau giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái dự kiến trong tương lai và việc tỷ giá hối đoái sẽ được sử dụng thế nào cùng với lãi suất để tính ra các tỷ suất lợi tức có thể so sánh được.

Tỷ giá hối đoái được xác định tại thị trường ngoại hối. Thị trường hối đoái sẽ cân bằng khi các khoản tiền gởi của mọi loại tiền đều có một tỷ suất lợi tức dự kiến như nhau, điều kiện mà theo đó những người nắm giữ các khoản tiền gởi ngoại tệ tiềm năng sẽ coi các khoản tiền nầy như những tài sản được mong muốn như nhau, sẵn sàng nắm giữ tất cả các nguồn cung ứng tiền gởi hiện có của mọi đồng tiền. Nói cách khác, một tỷ giá hối đoái ổn định được thị trường sẽ là một tỷ giá khiến cho những người tham gia thị trường bằng lòng nắm giữ các nguồn cung ứng hiện có về các khoản tiền gởi bằng tất cả các đồng tiền. Như vậy, tỷ giá cân bằng được xác định theo nhu cầu đối với ngoại tệ.

Vì tỷ giá hối đoái là giá tương đối của hai tài sản, nên hợp lý nhất là coi chúng như một loại giá tài sản. Nguyên lý cơ bản của việc định giá tài sản là ở chỗ giá trị hiện tại của tài sản, phụ thuộc vào sức mua tương lai dự kiến của chúng. Khi đánh giá tài sản, người tiết kiệm xem xét tỷ suất lợi tức dự kiến mà tài sản đó mang lại, tức là tỷ suất mà theo đó giá trị của một khoản đầu tư vào tài sản dự kiến sẽ tăng lên qua một thời gian.

Công cụ điều chỉnh tỷ giá. Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của nôi tệ. Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước, nếu lãi suất trong nước cao hơn so với lãi suất nước ngoài hay lãi suất ngoại tệ sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy vào hay sẽ làm chuyển lượng hóa ngoại tệ trong nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn. Điều này làm cho tăng cung ngoại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội tệ sẽ tăng giá. Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi suất nươc ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá trên thị trường hay đồng nội tệ sẽ giảm giá.

Về cơ bản, những trình bày trên đây chỉ đúng với các nền kinh tế mở (open economy), nơi có đồng tiền chuyển đổi và tự do lưu chuyển vốn. Về mặt lý thuyết, nếu lãi suất nước ngoài cao hơn, thì dẫn đến xuất khẩu tiền tệ, và trong trường hợp ngược lại, là nhập khẩu tiền tệ. Thực chất, những khác biệt về lãi suất chỉ dẫn tới sự chuyển đổi vốn, và kết quả là dẫn tới sự thay đổi về tỷ giá, nếu dự đoán về lợi nhuận, lãi suất thu được do đầu tư tiền tệ không được đảm bảo hay do việc nhân tín dụng bằng ngoại tệ không cân bằng, bởi những mất mát về tỷ giá. Một khi còn tồn tại những mối lo ngại như vậy, thì ngay cả khi có sự khác biệt lớn về lãi suất cũng không thể dẫn tới sự chuyển đổi vốn đến mức giảm lãi suất.

Dự đoán về một quá trình phát triển tỷ giá đảo ngược để dẫn tới chênh lệch về lãi suất thường xuất hiện khi xem xét lãi suất danh nghĩa của một đồng tiền chứ không phải là lãi suất thực, tức là khi chiết trừ tỷ lệ lạm phát thì đồng tiền với lãi suất danh nghĩa thấp lại có lãi suất thực cao hơn và ngược lại. Thí dụ, đồng tiền A có lãi suất 10%/năm và tỷ lệ tăng giá là 9%/năm; đồng tiền B có lãi suất là 8%/năm và tỷ lệ lạm phát là 5%/năm, như vậy lãi suất danh nghĩa của đồng tiền A cao hơn của đồng tiền B là 2%/năm, nhưng lãi suất thực thì ngược lại, lãi suất của đồng tiền B lại cao hơn so với đồng tiền A là 2%/năm. Theo cách phân tích này, chỉ có lãi suất thực mới tạo ra được sự nhập vốn; ngược lại, khi đồng tiền có lãi suất thực thấp thì sẽ dẫn tới hiện tượng nhận tín dụng, bởi vì người ta hy vọng rằng, khi thanh toán tín dụng người ta chỉ cần phải chi phí ít đơn vị nội tệ để mua lại số ngoại tệ đã vay, thậm chí còn ít hơn cả khi chưa trao đổi giá trị tín dụng.

Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, mức lãi suất cao là công cụ để chống lạm phát và nó thường được sử dụng để đáp ứng yêu cầu can thiệp vào nền kinh tế. Ngoài ra, chính sách lãi suất còn được sử dụng vào mục đích điều chỉnh giá trị đối ngoại của nội tệ. Phương pháp dùng lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể nó là phương pháp thường được sử dụng với mong muốn có những thay đổi cấp thời về tỷ giá. Cơ chế tác động của công cụ này đến tỷ giá hối đoái như sau: Trong thế cân bằng ban đầu của cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khi lãi suất tái chiết khấu thay đổi, sẽ kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó, tác động đến xu hướng dịch chuyển của các dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn (trong cán cân thanh toán quốc tế) hoặc ít nhất cũng làm những người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể, nếu lãi suất tăng sẽ dẫn đến xu hướng là một đồng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và những người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có khuynh hướng chuyển đổi đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi cao hơn. Kết quả là tỷ giá giảm (đồng nội tệ tăng). Trong trường hợp ngược lại, nếu muốn tỷ giá tăng thì sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.

Những hạn chế. Tuy nhiên, cách làm này cũng có những hạn chế nhất định, bởi lẽ lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau. Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi suất có thể biến động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một tình hình đặc biệt, có thể vượt quá tỷ suất lợi nhận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định. Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến động của lãi suất (lên cao chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến tỷ giá hối đoái biến động theo (hạ xuống chẳng hạn). Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nhưng khi tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước không ổn định, thì không nhất thiết thực hiện được, bởi vì với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm bảo an toàn cho số vốn chứ không phải là vấn đề thu hút được lãi nhiều. Để minh hoạ vấn đề này, có thể sử dụng hai ví dụ điển hình trong lịch sử.

Thứ nhất, trước thế chiến 2, Anh là một trong những nước điển hình về việc sử dụng lãi suất chiết khấu để can thiệp vào thị trường hối đoái và đã thu được nhiều kết quả đáng kể, do nền kinh tế và tiền tệ nước Anh lúc đó khá ổn định.

Thứ hai, có thể lấy cuộc khủng hoảng USD thời kỳ 1971-1973 làm ví dụ. Tổng thống Mỹ Nixon, đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Vào lúc này, mặc dù lãi suất trên thị trường New York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 lần thị trường Frankfurk, nhưng vốn ngắn hạn cũng không được chuyển vào Mỹ mà lại đưa đến Tây Đức và Nhật Bản, dù rằng các nước này thực hiện chính sách lãi suất thấp, vì lúc đó USD đang đứng bên bờ của nguy cơ mất giá.

Như vậy, chính sách lãi suất chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có giới hạn đối với tỷ giá hối đoái, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất chỉ có quan hệ lôgic chứ không phải quan hệ nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động vốn giữa các nước. Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình hình tiền tệ của các nước đều đại thể như nhau, thì phương hướng đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao. Do vậy, hiện nay chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có ý nghĩa của nó. Đồng thời, can thiệp vào tỷ giá là phải có một thị trường vốn (nhất là thị trường vốn ngắn hạn) đủ mạnh, tự do và linh hoạt: tài khoản vốn đã được mở cửa.

Quan hệ biện chứng. Lãi suất và tỷ giá là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Lãi suất và tỷ giá luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạch định của nền kinh tế. Sự khập khểnh giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể gây ra những hậu quả bất lợi như: nội tệ bị mất giá gây nguy cơ lạm phát “chảy máu” ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ, hạn chế nguồn vốn đầu tư nước ngoài…Vì vậy, trong quản lý vĩ mô chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý một cách đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.

Điều hành và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá là một kỹ thuật vi diệu, vì rằng hai biến số này bị tác động bởi nhiều yếu tố như tình hình xuất, nhập khẩu, lạm phát, đầu tư nước ngoài, chính sách, kinh tế, tài chính của chính phủ, các yếu tố tâm lý… Trong quá trình vận hành hai biến số này tác động ngược lại nhằm thúc đẩy hoặc kiềm chế sự phát triển của các yếu tố trên các yếu tố tác động đến quá trình hình thành và lãi suất và tỷ giá là kết quả hàng loạt quá trình tương tác khác nhau. Vai trò, phương thức, cường độ của từng yếu tố lại phụ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước và thay đổi theo từng giai đoạn phát triển. Như vậy, sự thay đổi của lãi suất và tỷ giá tùy thuộc rất nhiều yếu tố, các yếu tố lại thường đan xen vào nhau và tùy thuộc lẫn nhau ở một thời điểm cụ thể, tình hình cụ thể, sẽ có yếu tố nổi bật là nguyên nhân làm thay đổi lãi suất và tỷ giá và cũng có yếu tố trở thành hệ quả của sự thay đổi lãi suất và tỷ giá. Chính mối quan hệ biện chứng này làm cho việc điều hành và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá trở nên khó khăn, phức tạp. Vai trò của lãi suất và tỷ giá như là những công cụ tích cực trong phát triển kinh tế, đồng thời là những công cụ kềm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay vụng về trong việc sử dụng chúng.

 

Tài liệu tham khảo:

1.    Bộ Giáo Dục và Đào tạo (2009) - Kinh tế học vĩ mô – NXB Thống kê

2.    Những nguyên lý của kinh tế học (tập 2, 2002) - NXB Thống kê

3.    Trường ĐH kinh tế quốc dân (2002)- Kinh tế học vĩ mô - NXB Thống kê

4.    TS. Trương Tấn Diệp (2009) – Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - NXB Thống kê

5.    Paul A. Samuelson & D. Nordhaus (1997), Kinh tế học, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.