0236.3650403 (221)

LÝ THUYẾT VỀ FINTECH


Đỗ Văn Tính

Khái niệm

Cuộc cách mạng Internet những năm 1990 đã tạo ra những ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền tài chính thế giới, đặc biệt nó dẫn đến sự ra đời vàphát triển của tài chính điện tử. Tài chính điện tử bao gồm tất cả dịch vụ tài chính như các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm và mua bán, trao đồi chứng khoán được tiến hành qua mạng Internet và các website. Do đó, các cá nhân cũng như tổ chức chỉ cần đăng nhập tài khoản, tiến hành các giao dịch mà không phải đến trực tiếp các công ty tài chính. Các hình thức trong tài chính điện từ xuất hiện trong giai đoạn này gồm: ngân hàng di động, ngân hàng trực tuyến, thanh toán di động và môi giới trực tuyến. Đến những năm 2000, khi số lượng người dùng điện thoại thông minh tăng đột biến, điều này tạo thuận lợi cho tài chính lưu động (dạng mở rộng của tài chính điện tử) phát triển ví dụ thanh toán di động hay ngân hàng di động. Lợi ích lớn nhất của các dịch vụ này là giảm các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian giao dịch mà người dùng đều dễ dàng nhận ra.

Sự phát triển của tài chính điện tử cũng như những tiến bộ trong công nghệ di dộng, sau cuộc khủng hoản kinh tế tài chính toàn cầu năm 2008 đổi mới Fintech ra đời, dựa trên sự phối hợp tài chính điện tử, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo.

Vậy Fintech là gì?

“Fintech” từ viết tắt của “Financial technology” được hiểu là “Công nghệ tài chính”, là đại diện tiêu biểu nhất cho một cuộc cách mạng kỹ thuật số có thể thay đổi toàn cảnh tài chính toàn cầu. Trên thế giới hiện nay chưa có một khái niệm hay định nghĩa chuẩn nào về Fintech.

Theo Cemal Karakas và Carla Stamegna (2017), Fintech là viết tắt của công nghệ tài chính, là một thuật ngữ rộng được sử dụng chủ yếuđể chỉ những công ty đang sử dụng các hệ thống dựa trên công nghệ theo một cách nào đó để cung cấp dịch vụ tài chính trực tiếp hoặc cố gắng làm cho hệ thống tài chính hiệu quả hơn.

Theo Ulrich Scholte trong “Banking-as-a-Service-what you need to know”, Fintech là sự kết hợp của công nghệ và tài chính mang đến cho các công ty khởi nghiệp và nhà cung cấp dịch vụ khả năng cung cấp các sản phẩm/dịch vụ tài chính hợp lý mà trước đây chỉ có sẵn thông qua các tổ chức tài chính truyền thống.

Một định nghĩa khác về Fintech theo Wikipedia trích dẫn từ Huffington Post, công nghệ tài chính là công nghệ mới và đổi mới nhằm cạnh tranh với các phương pháp tài chính truyền thống trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính.

Như vậy có thể hiểu Fintech hiểu đơn giản là việc tận dụng sáng tạo công nghệ trong các hoạt động và dịch vụ tài chính.

Lịch sử hình thành và phát triển của Fintech

Sự ra đời của Fintech có xuất phát điểm từ những năm 1990, được khởi xướng bởi công ty Citigroup với tên gọi là “Hiệp hội Công nghệDịch vụ Tài chính” nhằm giúp đỡ các tổ chức có nhu cầu hợp tác các hoạt động liên quan đến công nghệ. Mặc dù xuất hiện sớm như vậy nhưng mãi đến năm 2014 thì Fintech mới thực sự thu hút được đông đảo người tham gia. Trên thực tế, sự phát triển tài chính và công nghệ từ lâu đã đan xen và củng cố lẫn nhau. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 là một bước ngoặt và cũng là lý do Fintech hiện đang phát triển thành một môhình mới. Sự phát triển mới này đặt ra những thách thức cho các  quan quản   những người tham gia thị trường. Như vậy, có thể nói Fintech chỉlà từ ngữ mới cho ngành cũ, nó đề cập đến việc áp dụng công nghệ để tài trợ. Định nghĩa đưa ra ba khía cạnh quan sát.

Đầu tiên, Fintech không phải là một sự phát triển mới lạ cho ngành dịch vụ tài chính mà nó đã có từ lâu đời. Điều này có thể chứng minh bởi các sự kiện cụ thể như sau: năm 1838, hệ thống điện báo của Samuel Morse (sử dụng mã Morse gồm các dấu chấm và dấu gạch ngang đại diện cho chữ và số) có thể truyền tải thông điệp qua hệ thống dây cáp xuất hiện lần đầu tiên và năm 1866, Công ty Điện báo Atlantic hoàn thành việc đặt cáp xuyên Đại Tây Dương. Hai sự kiện này đã cung cấp cơ sở hạ tầng cho quá trình toàn cầu hóa tài chính vào cuối thế kỉ 19. Sau đó,vào tháng 6/1967 Ngân hàng Barclays lắp đặt máy rút tiền tự động (ATM) đầu tiên tại London là khởi đầu cho sự phát triển hiện đại của FinTech ngày nay. Khía cạnh thứ hai, ngành dịch vụ tài chính là một trong những người mua hàng đầu các sản phẩm Công nghệ thông tin  các dịch vụ trên toàn cầu. Nghiên cứu của Hua Zhang và Jacob Jegher (2015) cho thấy, tổng chi tiêu cho Fintech lên đến hơn 197 tỷ USD vào năm 2014. Thứ ba, thuật ngữ Fintech không giới hạn trong các lĩnh vực cụ thể (ví dụ: tài chính) hoặc mô hình kinh doanh chẳng hạn như cho vayngang hàng (P2P), mà nó bao gồm toàn bộ phạm vi dịch vụ và sản phẩm theo truyền thống được cung cấp bởi ngành dịch vụ tài chính. Sự tiến hóa Fintech đã trải qua 3 giai đoạn phân biệt sau:

Giai đoạn 1: Từ khoảng năm 1866 đến 1987, một giai đoạn mà chúng ta mô tả là Fintech 1.0. Cuộc kết hôn giữa tài chính và công nghệ đã được thực hiện từ giai đoạn sớm nhất của chúng. Một trong những biểu hiện đầu tiên của công nghệ thông tin là sự phát triển của tàichính và hồ sơ văn bản hay sự ra mắt của các công nghệ tính toán đầu tiên như bàn tính, đây là tuổi đầu tiêu của toàn cầu hóa tài chính. Sự ra mắt của máy tính và máy ATM vào năm 1967 đã bắt đầu giai đoạn hiện đại của Fintech 1.0. Năm 1970, hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng quốc tế CHIPS (Clearing House Interbank Payments System) ra đời, CHIPS thực hiện ghép lệnh đa phương, liên tục và tức thời, do đó các lệnh thanh toán sẽ được xử lý gần như ngay lập tức. Hay trong lĩnh vực tiêu dùng, ngân hàng trực tuyến lần đầu tiên được giới thiệu ở Mỹ vào năm 1980 và ở Anh vào năm 1983 bởi Nottingham Building Society (NBS). Trong suốt thời gian những năm 1980, công nghệ thông tin được ứng dụng nhiều trong các hoạt động nội bộ của các tổ chức tài chính để thay thế hầu hết các dạng cơ chế dựa trên giấy, như công nghệ quản lý rủi ro được phát triển để quản lý rủi ro nội bộ tín dụng.

Năm 1974, ngân hàng Hestatt phá sản đã thúc đẩy những quy định đầu tiên về Fintech dưới hình thức là các hiệp định luật mềm quốc tế về sự phát triển của các hệ thống thanh toán. Năm 1987, thị trường chứng khoán Mỹ sụp đổ lại là sự đánh dấu cho giai đoạn toàn cầu hóa thứ 2.

Giai đoạn 2: Từ năm 1987 đến năm 2008 hay còn gọi là Fintech 2.0. Các dịch vụ tài chính kỹ thuật số truyền thống phát triển tronggiai đoạn này. Chiếc điện thoại di động đầu tiên được giới thiệu ở Mỹ là một trong những hình ảnh mang tính biểu tượng trong giai đoạn này. Công nghệ kỹ thuật số đã được sử dụng ngày càng phổ biến trong các dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Internet cùng các website chính là bước tạo đà quan trọng để phát triển Fintech ở cấp độ cao hơn.

Đến năm 2001, 8 ngân hàng ở Mỹ có ít nhất 1 triệu khách hàng trực tuyến. Tuy vậy các nhà quản lý hay các bên liên quan đều có những mối lo về rủi ro tín dụng có thể xảy ra khi tham gia ngân hàng trực tuyến.

Cho đến năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã tạo ra một bước ngoặt và thúc đẩy sự mạnh mẽ của kỷ nguyên 3.0 của Fintech.

Giai đoạn 3: từ năm 2009 đến nay, giai đoạn Fintech 3.0. Điểm nổi bật của giai đoạn này dân chủ hóa kỹ thuật số trong các dịch vụ tài chính. Khởi nghiệp mới và các công ty công nghệ được thành lập đã bắt đầu cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính trực tiếp đến các doanh nghiệp và công chúng.

Xét về thị trường vốn, hiệp định Basel 3 được đưa ra với yêu cầu lớn hơn trong cấu trúc vốn so của Basel 2. Các công ty cho thực hiện cho vay ngang hàng P2P xuất hiện đáp ứng nhu cầu tín dụng nhanh chóng của nhóm khách hàng (các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay khách hàng cá nhân), thực hiện kết nối trực tiếp giữa những người muốn vay và những người có vốn nhàn rỗi thông qua Internet hiệu quả, nhanh chóng và tiện ích. Còn đối với lĩnh vực đầu tư, các cố vấn Robo (Robo - advisor) được lập trình thuật toán có thể giúp khách hàng quản lý các khoản đầu tư của mình bằng cách tự động lựa chọn danh mục đầu tư và xây dựng danh mục đầu tư, thay đổi danh mục hay thậm chí thực hiện các giao dịch cho khách hàng.

Đối tượng của Fintech

Khác với thị trường tài chính truyền thống chỉ gồm hai đối tượng là các định chế tài chính (ngân hàng, công ty bảo hiểm, chứng khoán,...) và khách hàng thì Fintech lại bao gồm 3 đối tượng như sau:

Các định chế tài chính: Định chế tài chính (Financial institution) là các định chế (tức thể chế, tổ chức được thành lập theo luật) mà hoạt động chủ yếu của chúng là đóng vai trò trung gian tài chính trong quá trình chuyển vốn từ người cho vay sang người đi vay (ví dụ ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng) hoặc người tiết kiệm tới người đầu tư (ví dụ quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm) (Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân). Các định chế này ngày càng hợp tác sâu rộng, thậm chí còn trực tiếp đầu tư vào các công ty Fintech để tận dụng công nghệ.

Các công ty Fintech: Đây là các công ty được thành lập và hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin nhưng lại chuyên cung ứng các sản phẩm, dịch vụ mới trong lĩnh vực tài chính. Khách hàng của các công ty này có thể là các định chế tài chính, cũng có thể là người sử dụng cuối cùng. Các công ty Fintech được chia thành 2 nhóm:

(1) Các công ty phục vụ người tiêu dùng, cung cấp các công cụ kỹ thuật số để cải tiến trong các hoạt động cho vay như: cho vay cá nhân, thấuchi, quản lý tài chính cá nhân, tài trợ vốn cho các startup và (2) Các công ty thuộc dạng Back-Office 10 hỗ trợ công nghệ cho các định chế tài chính, tập trung là các ngân hàng, công ty chứng khoán.

- Khách hàng: Khách hàng  người cuối cùng sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính; là đối tượng phục vụ của các định chế tài chính hay các đơn vịcung cấp dịch vụ Fintech.

Phân khúc ngành công nghiệp Fintech

Dựa trên mô hình kinh doanh đặc thù có thể chia ngành công nghiệp Fintech thành 4 phân khúc chính gồm:

Phân khúc tài chính

Đây là một trong những lĩnh vực của Fintech giúp huy động vốn cho các chủ thể trong xã hội. Nó bao gồm các phân đoạn nhỏ hơn như sau:

Một là, gọi vốn cộng đồng hay còn gọi là huy động vốn cộng đồng (crowdfunding). Đây là cách thức để tài trợ cho một dự án bằng cách tăng cường huy động tiền từ một lượng lớn người ủng hộ, thông thường qua Internet để thực hiện một mục tiêu chung. Crowdfunding tham gia có mặt trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau: chương trình từ thiện, bất động sản, start-up, phim ảnh,... Gọi vốn cộng đồng có thể chia thành nhiều phân khúc nhỏ hơn nữa. Chẳng hạn, những nhà đầu tư có thể tham gia vào huy động vốn cộng đồng dựa trên cơ sở quyên tặng, tức là họ sẽ không nhận được khoản lợi nhuận nào cho những khoản tiền mà họ đã đóng góp.

Tín dụng và bao thanh toán (Credit và Factoring): Ở phân đoạn này, các công ty Fintech thường kết hợp với ngân hàng đối tác để cóthể mở rộng tín dụng tới các cá thể tư nhân và doanh nghiệp tư nhân mà không có sự tham gia của đám đông. Bên cạnh đó, những công ty này bổ sung thêm các dịch vụ bao thanh toán khác.

Đầu tư vốn cộng đồng (Crowdinvesting): Đây là hình thức tài trợ thông qua Internet (hoặc các phương tiện thông tin đại chúng khác), với số tiền nhỏ nhà đầu tư góp vốn cho các công ty được họ lựa chọn, trong trường hợp thành công, các nhà đầu tư nhận được một phần lợi nhuận trong công ty mà họ tài trợ. Doanh thu và lợi nhuận của các công ty này là các khoản phí mà các công ty được cấp tài trợ sẽ trả cho họ. Ở Đức, khoản phí này là khoảng 8% số tiền đầu tư.

Cho vay cộng đồng (Crowdlending): Nó bao gồm những nền tảng giúp cho các cá nhân và doanh nghiệp có thể vay vốn từ đám đông, từ những nhóm người khác. Để có thể vay được tiền từ các công ty này, các cá nhân muốn vay sẽ phải trả lãi suất định trước cho các nhà đầu tư. Các công ty cho vay cộng đồng nhận được hai loại phí bao gồm phí mà người vay chịu và cả phí từ người cho vay.

Phân khúc Quản lý tài sản

Ở phân khúc này các công ty Fintech sẽ cung cấp các dịch vụ tư vấn, giám sát, quản lý hay duy trì tài sản cá nhân hay một tổ chức. Phân khúc này cũng có nhiều phân đoạn nhỏ hơn.

Giao dịch xã hội (Social trading): là một hình thức mạng xã hội cho phép các nhà đầu tư có thể quan sát, theo dõi, thảo luận cách thức đầu, danh mục đầu tư hay các giao dịch của những người khác hay của các nhà đầu tư chuyên nghiệp hơn rồi quyết định có nên sao chép, hoàn thiện theo chiến lược đó hay không. Hay nói cách khác các nhà đầu tư sử dụng trí tuệ của đám đông để thực hiện đầu tư cho mình.

Tư vấn tự động (Robo-advice): đây là những phần mềm sử dụng công nghệ và các thuật toán có chức năng tư vấn tài chính hoặc quản lý đầu tư trực tuyến với sự can thiệp rất ít của con người. Thay vì gặp mặt trực tiếp với các cố vấn tài chính truyền thống các nhà đầu tư thường trao đổi với cố vấn kỹ thuật thông qua email, điện thoại. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều chuyên gia tư vấn robot với nhiều dịch vụ được cung cấp cho khách hàng về tiết kiệm, đầu tư,...

Quản lý tài chính cá nhân (PFM): Nó bao gồm các ứng dụng, phần mềm hoặc các dịch vụ do các công ty Fintech cung cấp nhằm mục đích quản lý, theo dõi hay kế hoạch hóa các khoản tài chính cá nhân. Các ứng dụng, phần mềm hay dịch vụ đó hỗ trợ tích cực cho khách hàng trong việc theo dõi chi tiết các dòng tiền vào, dòng tiền ra hàng kỳ của khách hàng. Để sử dụng các ứng dụng hay phần mềm thì buộc khách hàng phải trả phí hàng năm. Các ứng dụng PFM có thể kể đến như là: Money Lover, PocketGuard, Level Money,...

Banking và đầu tư: Nằm trong phân khúc này bao gồm những công ty đưa ra những giải pháp mới mẻ để quản lý những tài sản không có ở giao dịch xã hội, tư vấn tự động hay quản lý tài chính cá nhân. Các công ty quản lý tài sản trực tuyến, trong đó người tương tác với khách hàng là các chuyên gia, cố vấn đầu tư và bên cạnh đó cũng có sự hỗ trợ của tư vấn robo. Hay các công ty Fintech bán các sản phẩm, dịch vụtruyền thống của ngân hàng với mức chi phí thấp hơn, giảm bớt các thủ tục rườm rà.

Phân khúc thanh toán

Đây là phân khúc mà chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngành công nghiệp Fintech. Phân khúc này bao gồm các dịch vụ, ứng dụng dùng đểgiao dịch thanh toán các khoản chi tiêu không chỉ ở trong nước mà còn có thể thanh toán ở thị trường quốc tế. Nó bao gồm các công cụ sau:

Phương thức thanh toán thay thế: Hình thức chủ yếu của các phương thức thanh toán thay thế là các giải pháp về thanh toán di động.

Blockchain và tiền điện tử (Cryptocurrency): Đây là các công cụ thanh toán hợp pháp, là tiễn kỹ thuật số thay cho tiền pháp định. Bitcoin là loại tiền điện tử phổ biến và nổi tiếng nhất hiện nay. Còn Blockchain lại là một cơ sở dữ liệu lưu trữ và truyền tải các khối thông tin được liên kết với nhau bằng mã hóa và mở rộng theo thời gian. Các chuỗi Blockchain do những người trong hệ thống quản lý mà không cần đơn vị trung gian nào, do đó một khối thông tin đi vào hệ thống thì không thể thay đổi và nó đảm bảo tính bảo mật rất cao.

Phân khúc các Fintech khác

Trong phân khúc này là sự tập trung của các công ty Fintech mà không phân loại vào ba chức năng truyền thống của ngân hàng là tài chính, quản lý tài sản và giao dịch thanh toán. Phân khúc này bao gồm các dịch vụ bảo hiểm hay còn gọi là Insurtech (Công nghệ bảo hiểm) và Regtech (ứng dụng công nghệ để hỗ trợ tuân thủ pháp luật). Bên cạnh đó, phân đoạn này của Fintech còn bao gồm các công cụ tìm kiếm và các trang web so sánh hay các giải pháp kỹ thuật cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính được bao gộp vào phân đoạn Công nghệ, Công nghệ thông tin và Cơ sở hạ tầng.

Tác động của Fintech

Ảnh hưởng của Fintech là rất lớn không chỉ tới ngành ngân hàng mà còn tới các lĩnh vực khác của xã hội. Các tác động của Fintech này bao gồm cả những tác động tích cực và tiêu cực.

Các tác động tích cực

Một là, Fintech tạo ra các mô hình kinh doanh mới làm thay đổi các kênh phân phối và các sản phẩm truyền thống đặc biệt trong lĩnh vực tài chính. Cụ thể như Internet banking, Mobile banking, QR code, ngân hàng số, ví điện tử,...Các ứng dụng này đã nhanh chóng thay đổi thói quen của khách hàng trong việc sử dụng các giao dịch tài chính. Ví dụ như nhờ sự phát triển của công nghệ đặc biệt là điện thoại thông minh nhiều khách hàng đang chuyển sang cách thức thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng. Hay chúng ta có thể thấy các xu hướng mới như “ngân hàng không giấy”, “tổ chức tài chính không giấy” đang ngày càng trở nên phổ biến đồng thời nó cũng mang đến thách thức không nhỏ của ngành dịch vụ tài chính.

Hai là, Fintech phát triển dựa trên việc ứng dụng các công nghệ cao ví dụ như Big data, Blockchain, định danh khách hàng điện tử,…sẽ giúp các tổ chức tài chính thu thập các dữ liệu một cách nhanh chóng và dễ dàng, cắt giảm bớt các bước phân tích hành vi khách hàng làm đơn giản hóa quy trình thực hiện, đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, cắt giảm các loại chi phí, mà vẫn có thể bảo đảm được tính an toàn, đặc biệt trong giao dịch ngân hàng mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn đồng thời tăng tính hài lòng hơn cho khách hàng.

 

Ba là, Fintech tạo cho những khách hàng ở vùng sâu, vùng xa hoặc những khách hàng gặp những rào cản về thủ tục hoặc địa lý các giải pháp để dễ dàng tiếp cận các dịch vụ tài chính. Đặc biệt, Fintech hỗ trợ tốt hơn cho nhóm khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ. Những khách hàng này thường bị các ngân hàng từ chối do không đáp ứng được các yêu cầu về vốn và tài sản. Do đó, khi Fintech ngày càng phát triển, các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ vốn dễ dàng hơn.

Bốn là, Fintech cung cấp danh mục các sản phẩm tài chính đa dạng cho khách hàng. Với sự phát triển của công nghệ như thanh toán di động, cho vay ngang hàng P2P, tiền điện tử,…tạo ra sự cung ứng dịch vụ liên tục, nhanh chóng, thuận tiện, mọi lúc, mọi nơi. Từ đó hỗ trợ phát triển nền kinh tế bền vững, lâu dài. Chẳng hạn với các công ty cho vay P2P (kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay trên Internet), khách hàng có thể tiết kiệm thời gian tối đa khi có thể rút ngắn thời gian phê duyệt các khoản vay từ vài tuần ở các ngân hàng xuống chỉ còn vài giờ. Do đó, khách hàng có thể nhận được ngay đáp ứng nhu cầu của mình.

Tác động tiêu cực

Bên cạnh những điểm tốt nêu trên thì Fintech cũng mang đến những rủi ro sau:

 

Một là, nguy cơ bị tấn công bởi chính công nghệ. Các sản phẩm Fintech được tạo ra trên nền tảng công nghệ nên việc gặp phải các nguy cơ tấn công từ công nghệ là điều không tránh khỏi. Các doanh nghiệp sẽ phải vừa tạo ra các sản phẩm Fintech mới vừa phải thiết kế các giải pháp đi kèm để đảm bảo an toàn thông tin cho khách hàng, phòng ngừa nhiều nguy cơ tiềm ẩn như mã độc, ăn cắp thông tin,...vì mọi khách hàng đều muốn thông tin của mình phải có độ bảo mật và an toàn cao. Do đó, tính an toàn và bảo mật thông tin là một trong những nhân tố quan trọng trong việc khách hàng quyết định sử dụng hay không.

Hai là, Fintech phát triển quá nhanh so với hệ thống pháp luật hiện hành. Sản phẩm Fintech là dựa trên sự đổi mới và sáng tạo liên tục của công nghệ, trong khi đó các quy định, luật lệ đặt ra để áp dụng phải trải qua thời gian rất lâu, do đó có nhiều trường hợp các quy định của pháp luật hiện hành chưa theo kịp. Đây cũng là một trong số những lý do gây ra các vụ lừa đảo liên quan đến Fintech thời gian vừa qua.

 

Ba là sự phát triển của Fintech làm thay đổi thị trường lao động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, các robot công nghệ được lập trình sẵn có thể thực hiện các công việc mang tính lặp lại cho nhân viên của các ngân hàng, tổ chức tài chính, công ty chứng khoán, bảo hiểm,…điều này dẫn tới việc cắt giảm nhân sự trong các định chế tài chính truyền thống, làm cho tỷ lệ thất nghiệp ngành tài chính ngân hàng gia tăng.

Bốn là, Fintech đã và đang làm thay đổi thị phần của các ngân hàng cũng như các định chế tài chính xưa nay. Hiện nay, lĩnh vực công nghệ tài chính đang có sức hút vô cùng mạnh mẽ khi có rất nhiều các công ty khởi nghiệp dựa trên nền tảng hệ thống công nghệ thông tin và viễn thông với nguồn vốn yêu cầu nhỏ và không cần nhiều mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch, điều này khác hẳn với các ngân hàng truyền thống. Do đó, các định chế tài chính truyền thống đã và đang phải san sẻ thị phần của mình cho các công ty Fintech.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Văn Ngọc (2015), Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân.

Lê Thị Kim Tuyết (2011), Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng Internet banking.

Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ (9/2018), Tổng luận: Fintech làn sóng công nghệ làm thay đổi thế giới.