KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG TRONG SẢN XUẤT
Kiểm soát chất lượng và việc đảm bảo chất lượng:
Kiểm soát chất lượng là việc dùng các hoạt động kiểm soát thiết kế nhằm đảm bảo sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng yêu cầu các tiêu chuẩn đề ra nó, có thể liên quan đến nguyên vật liệu, sự hoàn thiện, độ tin cậy, thời gian hay bất kỳ yếu tố nào.
Với bất kỳ hoạt động kiểm soát nào, việc kiểm soát chất lượng liên quan đến 4 thành phần của hệ thống đo lường, phản hồi, so sánh với một tiêu chuẩn, và hiệu chỉnh khi cần thiết. Chú ý rằng các tiêu chuẩn có thể áp dụng đối với một phạm vi rộng các tiêu chuẩn đo lường.
Vai trò của các tiêu chuẩn định lượng:
Chất lượng công nghiệp dự chủ yếu vào các tiêu chuẩn, không phải là người tạo ra sản phẩm, giá chi trả cho nó, hay ưu tiên người sở hữu hay dùng nó. Các sản phẩm đắt tiền với các đặc tính nổi trội, không đòi hỏi chất lượng cao hơn các sản phẩm không đắt tiền. Các sản phẩm được thiết kế dành cho các thị trường khác nhau, và chất lượng là sự phản ánh về cách thức thiết kế hay tiêu chuẩn mà nó đạt đến.
Khi tiêu chuẩn định lượng mất đi, chất lượng là một vấn đề thuộc về phán đoán và không thể kiểm soát bởi quan điểm khoa học. Phán đoán căn cứ trên các cảm giác khách quan hoặc các thước đo thay thế.
Việc đảm bảo chất lượng là hệ thống các chính sách, quy trình và các nguyên tắc hướng dẫn thiết lập và duy trì tiêu chuẩn cụ thể cho chất lượng sản phẩm. Do đó hệ thống này bao gồm mỗi người với một vị trí tác động đến chất lượng, từ các nhà cung cấp đi qua các công đoạn sản xuất riêng của doanh nghiệp và những dịch vụ, các khách hàng dùng các sản phẩm dịch vụ.
Trong quá khứ, các phí tổn kiểm soát chất lượng được phân loại thành các phí tồn kiểm soát và kiểm tra vác phí tổn sản phẩm hư hỏng. Vấn đề kiểm soát chất lượng được nhận thức như một trong các vấn đề đạt được để có mức độ tối ưu chi phí dựa trên các hoạt động kiểm soát chất lượng sẽ giảm thiểu tổng chi phí. Phí tổn gần đây được mởi rộng gồm phí tổn ngăn ngừa, khen thưởng và hư hỏng. Tuy vậy một số cải thiện liên tục và chương trình zero khuyết tật nhận định rằng các sản phẩm hoảng và sự lãng phí được nâng cao về mặt cải thiện chất lượng sẽ luôn mang lại lợi ích từ một tổ chức với khoảng thời gian vận hành lâu dài.
Việc kiểm soát chất lượng liên quan đến hệ thống đo lường đặc điểm chất lượng, sự phản hồi dữ liệu, sự so sánh với các tiêu chuẩn đặc biệt, và hiệu chỉnh khi cần thiết. Việc kiểm soát chất lượng trong sản xuất sản phẩm phụ thuộc vào hệ thống đo lường chủ yếu của các đặc điểm người dùng nguyên vật liệu. Các đặc tính vật chất, thiết kế và độ tin cậy sản phẩm là thành phần then chốt. Các dịch vụ thường chuyển các giá trị trí tuệ hoặc thẩm mỹ của những người có kỹ năng thì có vẻ khó đo lường hơn. Các thước đo thay thế như môi trường dịch vụ, thời gian phục vụ thường dùng để đánh giá chất lượng dịch vụ.
Một biến động vốn có hiện hữu trong tất cả các tiến trình chế tạo hàng hóa và sản phẩm. Trong các sản phẩm vật chất, sự biến động gia tăng do khác biệt về nguyên vật liêu, máy móc của nhân viên điều hành, môi trường, … Về mặt dịch vụ, kỹ năng của nhà cung cấp và môi trường phục vụ cho thấy các đầu ra thay đổi, ví dụ khoảng thời gian yêu cầu để xử lý một khoản tiền vay của một nhân viên.
Các nguyên nhân ngẫu nhiên của biến động là các yếu tố vốn có được dự tính như một khía cạnh bình thường của hoạt động. Chúng không gây dịch chuyển phương hướng chủ yếu của tiến trình.
Các nguyên nhân hệ thống của biến động là các yếu tối có thể dịch chuyển khuynh hướng cụ thể của một tiến trình, hay phát sinh một số sự không ổn định. Các nhà phân tích thường tìm nguyên nhân hệ thống của sự biến động.
Một tiến trình nằm trong tầm kiểm soát có thể đáp ứng các nguyên nhân phổ biến của biến động, mà không gặp một tình trạng bất cân đối nào.
Năng suất của tiến trình: là khả năng tiến trình vận hành các tham số thiết kế của nó, với phương diện chủ yếu và độ biến thiên vốn có của nó. Năng suất tiến trình đôi khi được mô tả bởi phân phối tần suất của biến động.
Các dung sai là các giới hạn trên và dưới của hệ thống đo lường có thể chấp nhận được, xác định sản phẩm hay tiến trình có thể chấp nhận. Chúng thường khác biệt theo kỹ thuật.
Việc lấy mẫu:
Sự biến động ở các đặc điểm đầu ra là một vấn đề, bởi vì với nhiều độ biến thiên, một số sản phẩm sản xuất có thể chứa các đặc điểm bên ngoài giới hạn dung sai. Nếu tất cả các sản phẩm có thể được thẩm tra hoặc kiểm tra, có thể tìm thấy các sản phẩm hỏng.
Vì vậy việc kiểm tra 100 phần trăm tổng thể luôn được thực hiện, với các doanh nghiệp không thể dùng phương pháp kiểm tra một phần đầu ra.
Việc lấy mẫu có thể tốn ít thời gian hơn và ít phí tổn hơn.
Việc kiểm tra đôi khi phá hủy một sản phẩm, vì thể việc kiểm tra tất cả đầu ra có thể bất lợi.
Việc lấy mẫu có thể tạo ra kết quả chính xác cao khoảng tin cậy dự kiến. Vấn đề quan tâm chủ yếu trong việc dùng một mẫu, là nó thể hiện các đặc điêm sản phẩm hay tiến trình, và mẫu đó đại diện đúng hoàn toàn choa các sản phẩm trong lô hàng đó. Điều này yêu cầu sản phẩm nên chọn tính cờ bằng cách dùng bảng số ngẫu nhiên hay số ngẫu nhiên xuất phát từ máy điện toán.
Nguyễn Huy Tuân