KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG THEO PHƯƠNG THỨC ĐÀO TẠO TÍN CHỈ CỦA SINH VIÊN
ĐỖ VĂN TÍNH
Khái niệm thích ứng
Thuật ngữ “thích ứng” hay thích nghi có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “Adaptacia”, gốc tiếng Anh là “Adaptation”. Khi dịch sang tiếng Việt, thì có thể dịch là “thích nghi”, có người dịch là “thích ứng”. Đồng thời, cho đến nay nội hàm của khái niệm “thích ứng” vẫn chưa được thống nhất. Trong mỗi nghiên cứu của các tác giả khác nhau thì đưa ra khái niệm thích ứng dưới góc độ khác nhau.
Trong “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê (chủ biên) của nhà xuất bản Khoa học Xã hội viết: “thích nghi là có những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh, môi trường mới, thích nghi với các nếp sinh hoạt mới”, còn “thích ứng là những thay đổi cho phù hợp với các điều kiện mới, yêu cầu mới, lối làm việc thích ứng với tình hình mới (như thích nghi)”.
Trong “Đại từ điển Tiếng Việt” (Nguyễn Như Ý chủ biên) thì khái niệm “thích nghi là quen dần, phù hợp với điều kiện mới nhờ sự biến đổi, điều chỉnh nhất định”, “còn thích ứng là phù hợp với điều kiện mới nhờ những thay đổi, điều chỉnh nhất định”.
Trong “Từ điển tâm lý” của Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em do Nguyễn Khắc Viện chủ biên, đã phân biệt thích ứng và thích nghi như sau: “Mọi sinh vật sống được trong một môi trường có nhiều biến động, bằng cách thay đổi phản ứng của bản thân, hoặc tìm cách thay đổi môi trường, bước đầu là điều chỉnh những phản ứng sinh lý như thích nghi với nhiệt độ cao hay thấp, môi trường khô hay ẩm...sau đó là thay đổi cách ứng xử, đây là thích nghi tâm lý”.
Trong “Từ điển Tâm lý học” của Viện Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên, “thích nghi xã hội” là: 1) quá trình thích nghi tích cực của cá nhân với những điều kiện của môi trƣờng xã hội mới; 2) kết quả của quá trình trên.
Trong “Sổ tay chẩn đoán tâm lý”, tác giả Trần Thị Cẩm đã đồng nhất khái niệm thích nghi với thích ứng, phân biệt rõ thích nghi với thích nghi xã hội. Thích nghi là sự thích ứng về cấu tạo chức năng của cơ thể đối với điều kiện môi trường. Thích nghi xã hội có hai nghĩa: một là quá trình thích nghi tích cực của cá nhân đối với những điều kiện của môi trường xã hội mới; hai là kết quả của quá trình trên.
Theo PGS.TS. Trần Thị Minh Đức, “Thích ứng là một quá trình hoà nhập tích cực với hoàn cảnh có vấn đề, qua đó cá nhân đạt được sự trưởng thành về mặt tâm lý”.
Hoà nhập tích cực: là sự chủ động thay đổi bản thân và cải tạo hoàn cảnh trong sự hài hoà nhất định. Cá nhân phát hiện vấn đề, phân tích vấn đề, liên hệ kinh nghiệm bản thân và tìm cách thay đổi bản thân, cải tạo hoàn cảnh cho phù hợp với bản thân.
Hoàn cảnh có vấn đề: Tình huống, sự kiện xuất hiện không nằm trong kinh nghiệm của cá nhân có ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, buộc cá nhân phải huy động tiềm năng của bản thân để giải quyết chúng.
Sự trưởng thành về mặt tâm lý xã hội: là sự thoải mái bên trong của mỗi cá nhân, sự phát triển hài hoà và làm chủ trong các mối quan hệ xã hội.
Từ việc xem xét các quan niệm trên, có thể thấy rằng: thích nghi và thích ứng là những khái niệm chưa hoàn toàn thống nhất với nhau.
“Thích nghi” là một trong những phạm trù cơ bản của sinh vật học do S. Đác- uyn đưa ra dùng để chỉ các quá trình biến đổi về cấu trúc và chức năng của cơ thể sinh vật để duy trì sự cân bằng của quan hệ cơ thể - môi trường trong điều kiện môi trường thay đổi. Sự thích nghi theo nghĩa này được diễn ra theo cơ chế di truyền, biến dị và chọn lọc tự nhiên. Quan điểm này là điểm xuất phát của các nhà tâm lý học tư sản nhấn mạnh mặt thích nghi của cơ thể với môi trường. Trong khi đó các nhà tâm lý học nhân văn đã đề cao thích ứng ở người như một phẩm chất nhân cách: tự khẳng định, tự thể hiện và tự ý thức.
Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử chúng ta phân tích một cách khoa học nội dung và cơ chế của sự thích ứng của con người.
Với lao động, con người đã tạo ra một loại môi trường mới – môi trường xã hội với hai đặc trưng hoạt động và giao tiếp. Để tồn tại và phát triển, con người phải thích ứng với những yêu cầu của môi trường này - phải tham gia được các hoạt động và quan hệ. Chủ nghĩa Mác cũng chỉ ra nội dung của sự thích ứng mới này là bằng hoạt động tích cực, con người lĩnh hội nền văn hoá (nội dung phương thức hoạt động và quan hệ) để hình thành những ứng xử mới, điều chỉnh những hành vi cũ phù hợp với những yêu cầu, điều kiện hoạt động và quan hệ xã hội mới. Thích ứng này có thể gọi là thích ứng tâm lý người, là hình thức cân bằng giữa con người với môi trường xã hội thay đổi.
Để có trình độ thích ứng mới này, con người cần phải trở thành một chủ thể với những cấu tạo tâm lý đặc trưng và nắm được phương tiện tác động bằng cơ chế lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người. Sự lĩnh hội này được thực hiện bằng phương thức hoạt động và giao tiếp.
Thông qua việc phân tích trên, tác giả đã đưa ra khái niệm thích ứng như sau: thích ứng (thích ứng tâm lý) là một quá trình con người luôn tích cực, chủ động lĩnh hội các điều kiện, các yêu cầu, phương thức mới của hoạt động nhằm đạt được mục đích của hoạt động đã đề ra. Thông qua đó, chủ thể thu nhận được những tri thức, kỹ năng , kỹ xảo mới để đạt hiệu quả cao trong hoạt động và hoàn thiện về mặt nhân cách, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội.
Thích ứng tâm lý thể hiện qua các nội dung cơ bản sau:
- Thích ứng là một cấu trúc có quan hệ biện chứng gồm 2 thành tố cơ bản: 1/hình thành đƣợc những phương thức hành vi thích hợp, đáp ứng đƣợc yêu cầu, đòi hỏi của điều kiện sống và hoạt động mới, như là phương tiện của sự thích ứng; 2/hình thành những cấu tạo tâm lý mới tạo nên tính chủ thể của hành vi, ứng xử thích ứng. Nhờ nó con người định hướng, điều khiển, điều chỉnh các hành vi, ứng xử đã lĩnh hội đáp ứng, thậm chí tác động cải biến chính môi trường sống. Hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ để tạo nên sự thích ứng của con người, nhờ chúng mà con người điều chỉnh được hệ thống hành vi hiện có hoặc hình thành được những hệ thống hành vi mới phù hợp.
- Thích ứng tâm lý của con người hình thành thông qua hoạt động và giao tiếp, dưới sự tác động của các yếu tố bên trong: trình độ phát triển, lịch sử cá thể, vốn kinh nghiệm, nhu cầu, động cơ... và những yếu tố bên ngoài: loại hoạt động và giao tiếp, những điều kiện sống mà cá nhân tham gia.
- Thích ứng tâm lý là quá trình con ngƣời tạo nên những biến đổi trong đời sống tâm lý của mình trƣớc những điều kiện mới. Nó tạo ra sự biến đổi về chất, phù hợp với sự phát triển của quy luật khách quan, thông qua việc con người tiếp nhận những giá trị xã hội, hòa nhập một cách tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo vào xã hội; có khả năng đáp ứng nhanh chóng những yêu cầu của hoạt động xã hội.
- Thích ứng tâm lý là kết quả của quá trình con người tích cực, chủ động, sáng tạo để hình thành những phương thức hoạt động đáp ứng yêu cầu mới của môi trường sống. Để hình thành, hoàn thiện và phát triển, con người phải thích ứng nhanh chóng với những đòi hỏi của xã hội, tham gia vào các hoạt động và các quan hệ xã hội một cách tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo nhằm lĩnh hội nền văn hóa xã hội, điều chỉnh hành vi cũ, hình thành hành vi mới.
- Thích ứng tâm lý có vai trò rất to lớn đối với con người. Nó là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự cân bằng của con người với môi trường xã hội, cho sự thành công trong điều kiện sống và hoạt động mới. Mặt khác, những ứng xử thích hợp là cơ sở và biểu hiện của những phẩm chất nhân cách mới. Để thích ứng, cá nhân phải hình thành được những cấu tạo tâm lý mới. Vì vậy, thích ứng như là điều kiện của sự phát triển và hoàn thiện nhân cách, đảm bảo cho nhân cách đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống và hoạt động thay đổi. Việc cá nhân không thích ứng với những đòi hỏi của điều kiện sống và hoạt động mới sẽ làm cho anh ta hoạt động kém hiệu quả, không phát triển tâm lý và không hoà nhập được cuộc sống xã hội. Thích ứng là điều kiện của việc tiếp thu hoạt động mới, phát triển tâm lý cá nhân trong điều kiện cuộc sống thay đổi.
Thích ứng có ba hình thức, thể hiện ở ba cấp độ sau:
- Thích ứng sinh lý là hình thức thích ứng đầu tiên, xuất hiện ở động vật có hệ thần kinh. Thích ứng sinh lý có đặc trưng là cơ thể có khả năng phản ứng tự động trước những tác động trực tiếp của môi trường bên ngoài. Cơ chế của thích ứng sinh lý là những phản xạ không điều kiện. Sự cân bằng giữa cơ thể và môi trường là quan hệ trực tiếp.
- Thích ứng tâm lý là hình thức thích ứng cao hơn thích ứng sinh lý. Đặc trưng của hình thức này là cơ thể có khả năng đáp ứng lại những kích thích có tính chất tín hiệu từ môi trường. Cơ chế của thích ứng ứng tâm lý là phản xạ có điều kiện. Hệ thần kinh với chức năng và cơ chế hoạt động của nó đã giúp cơ thể định hướng, điều chỉnh hoạt động đối với những biến đổi của môi trường. Các quá trình thích ứng của cơ thể được thực hiện qua hoạt động của hệ thần kinh, đặc biệt là não bộ. Nhờ có thích ứng tâm lý, cơ thể có thể tồn tại và phát triển tốt hơn trước môi trường đầy biến động.
- Thích ứng tâm lý xã hội là hình thức thích ứng cao nhất chỉ có ở người. Đặc trưng của hình thức thích ứng này là con người sống trong môi trường xã hội, tiếp nhận các giá trị xã hội, hòa nhập vào xã hội, có khả năng đáp ứng những yêu cầu của xã hội. Đòi hỏi cá nhân phải hoạt động tích cực, chủ động để hình thành những ứng xử mới, điều chỉnh hành vi cũ phù hợp với các yêu cầu, điều kiện của hoạt động và quan hệ xã hội mới.
Trong bài viết này, tác giả sử dụng thuật ngữ “thích ứng” được hiểu theo nghĩa thích ứng tâm lý – xã hội mang đặc trưng người.
Khái niệm về tín chỉ
Hiện nay có khá nhiều định nghĩa về tín chỉ, ở đây xin nêu cách hiểu đƣợc đề cập trong “Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ” ban hành năm 2007 (thường gọi là Quy chế 43): Tín chỉ đƣợc sử dụng để tính khối lượng học tập của sinh viên. Một tín chỉ được qui định bằng 15 tiết học lý thuyết, 30 – 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 – 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 – 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án tốt nghiệp. Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
Giờ tín chỉ là đại lượng đo thời lượng học tập của sinh viên, được phân thành ba loại theo các hình thức dạy - học và đƣợc xác định như sau:
a) Một giờ tín chỉ lên lớp bằng 01 tiết lên lớp và 02 tiết tự học;
b) Một giờ tín chỉ thực hành bằng 02 tiết thực hành và 01 tiết tự học;
c) Một giờ tín chỉ tự học bắt buộc bằng 03 tiết tự học bắt buộc nhưng đư ợckiểm tra, đánh giá.
Khái niệm sinh viên
Sinh viên, tiếng Anh là Students, theo nguồn gốc tiếng Latin nghĩa là “người làm việc nhiệt tình, người tìm hiểu khai thác tri thức”.
Theo “Từ điển Tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên), sinh viên được hiểu là “Người học ở bậc đại học”.
Còn theo tác giả Vũ Thị Nho thì sinh viên là lứa tuổi từ sau tuổi Phổ thông trung học đến khoảng 24-25 tuổi. Đây là lớp người đang theo học ở các trường Đại học, cao đẳng, là tầng lớp tri thức của xã hội. Sinh viên là tầng lớp quan trọng trong mỗi chính thể, là đội ngũ chuyển tiếp, chuẩn bị cho nguồn lực lao động xã hội có trình độ cao của đất nước.
Hoạt động chủ đạo của tuổi sinh viên là hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học và các hoạt động nghề nghiệp.
Một số đặc điểm cơ bản của sinh viên
- Về thể chất: Đây là giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ xương, cơ bắp, tạo ra nét đẹp hoàn mỹ ở người thanh niên. Các tố chất về thể lực: sức mạnh, sức bền, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh nhờ sự phát triển ổn định của các tuyến nội tiết cũng như sự tăng trưởng các hoóc môn nam và nữ.
- Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ: Sinh viên là giai đoạn hoàn thiện về sự phát triển thể chất và sinh lý. Hoạt động của hệ thần kinh ở vào thời kỳ sung mãn nhất giúp sinh viên có thể tiến hành hoạt động học tập, lĩnh hội tri thức của mình ở mức độ chuyên sâu. Bản chất của hoạt động nhận thức của lứa tuổi này ở các trường Đại học, Cao đẳng là đi sâu tìm hiểu những lĩnh vực, chuyên ngành khoa học cụ thể nhằm trở thành những chuyên gia trong những lĩnh vực đó. Hoạt động này phải kế thừa những thành tựu đã có, đồng thời tiếp nhận và phát huy những thành tựu tri thức khoa học đương đại cũng như góp phần sáng tạo ra các tri thức mới. Vì vậy, hoạt động nhận thức của sinh viên thường đòi hỏi sự căng thẳng, mệt mỏi về trí tuệ và phối hợp nhiều thao tác tư duy như so sánh, phân tích, khái quát hoá, trừu tượng hoá...
- Sự phát triển về tự ý thức: Tự ý thức là một đặc điểm tâm lý quan trọng của con ngƣơưi, bắt đầu manh nha hình thành từ tuổi ấu thơ. Đặc điểm này giúp cá nhân tự nhận thức, đánh giá mình trong các mối quan hệ với người khác, từ đó tự điều chỉnh mình để thích nghi với xã hội và phù hợp với những định hướng giá trị của chính mình. Đối với sinh viên, tự ý thức là một nét phẩm chất không thể thiếu. Sự phát triển cao của đặc điểm tâm lý này giúp cho sinh viên có thể đánh giá động cơ, kết quả hành động, cũng như đánh giá tư tưởng, tình cảm, phong cách đạo đức và hứng thú của chính mình, từ đó hiểu biết và có thái độ đúng đắn với chính mình và với xã hội. Tự ý thức giúp sinh viên đánh giá toàn diện và hoàn thiện nhân cách của mình cũng như tạo nên những nét độc đáo riêng của cá nhân để tự khẳng định mình trong xã hội.
- Đời sống xúc cảm, tình cảm: Thời kỳ sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ và tình cảm đạo đức. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong quá trình học tập và đời sống của họ. Tình cảm trí tuệ biểu hiện rõ thái độ tích cực đối với việc chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; ở việc tự khám phá, lựa chọn, vận dụng sáng tạo các phương pháp và phương tiện học tập phù hợp với điều kiện môi trường và hình thức tổ chức dạy học...nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập. Đồng thời, tình cảm trí tuệ của sinh viên còn thể hiện ở việc họ tích cực học tập để trở thành chuyên gia của lĩnh vực chuyên ngành, vừa học tập chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của chuyên ngành khoa học khác đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nghề nghiệp trong tương lai, của xã hội và cuộc sống bản thân. Tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh viên có chiều sâu rõ rệt, biểu hiện ở chỗ: Sinh viên có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở những gì mà họ yêu thích, họ có cách cảm, cách nghĩ riêng, có phong cách riêng.
- Sự phát triển về động cơ học tập: Một trong các hoạt động chủ đạo của sinh viên là học tập. Vì vậy động cơ học tập là một nét tâm lý quan trọng của sinh viên. Nó mang những nét đặc trưng khác với các lứa tuổi khác. Đối với sinh viên, động cơ học tập bị chi phối bởi nhiều yếu tố cá nhân như nhu cầu, tình cảm, định hƣớng giá trị, thế giới quan, niềm tin... Ngoài ra, nó còn thể hiện rõ tính hệ thống. Hoạt động học tập của sinh viên không chỉ do một động cơ thúc đẩy mà thường là rất nhiều động cơ được sắp xếp theo hệ thống.
Hoạt động học và đặc điểm hoạt động học của sinh viên
Hoạt động học
Hoạt động của con người rất đa dạng và phong phú. Trong đó có thể nói rằng hoạt động học là một trong những hoạt động cơ bản nhất của con người. Đây là quá trình nhận thức độc đáo của người học, giúp họ phát triển nhân cách toàn diện để thích ứng nhanh chóng với sự phát triển phức tạp của cuộc sống. Hoạt động học có các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Hoạt động học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học, dưới sự điều khiển sư phạm của thầy.
- Đối tượng của hoạt động học là tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với tri thức đó, trong đó người học là chủ thể, khái niệm khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh.
- Hoạt động học về bản chất là sự tiếp thu, xử lý thông tin chủ yếu bằng các thao tác trí tuệ dựa vào vốn sinh học và vốn đạt được của cá nhân, từ đó có được tri thức, kỹ năng, thái độ mới.
Đặc điểm về hoạt động học của sinh viên
- Đặc điểm hoạt động học của sinh viên
+ Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội các tri thức, hệ thống khái niệm khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách của người chuyên gia tương lai. Hoạt động học tập của họ vừa gắn liền với hoạt động nghiên cứu khoa học, vừa không thể tách rời hoạt động nghề nghiệp của ngƣời chuyên gia.
+ Hoạt động học của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, có mục đích, nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức học tập và xây dựng thời gian cụ thể. Nội dung học tập có tính hệ thống, cơ bản, thống nhất và chuyên sâu.
+ Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập, tự chủ và sáng tạo cao. Điều rất quan trọng là sinh viên phải tìm ra phương pháp học tập mới ở bậc Đại học. Phương pháp đó phải phù hợp với những chuyên ngành khoa học mà họ theo đuổi.
- Cấu trúc hoạt động học của sinh viên bao gồm ba thành tố cơ bản: động cơ học, nhiệm vụ học và các hành động học:
+ Động cơ học của sinh viên: là nhu cầu học được sinh viên nhận thức và trở thành động lực thôi thúc học tiến hành hoạt động học. Động cơ học của họ được hình thành trong suốt quá trình học qua việc tiếp thu các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và lĩnh hội các phương pháp học ở đại học. Hoạt động học bị chi phối bởi rất nhiều động cơ và các nhóm động cơ đó đều thúc đẩy sinh viên nhưng không phải đồng đều mà tạo nên tình trạng thứ bậc các động cơ ưu thế. Thứ bậc này không ổn định mà được biến đổi trong quá trình học tập của họ ở đại học.
+ Nhiệm vụ học của sinh viên: là hình thức cụ thể hóa mục đích học thành những công việc học tập cụ thể mà sinh viên phải thực hiện để có sản phẩm nhất định. Việc thực hiện các nhiệm vụ học giúp sinh viên chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng và kỹ xảo tương ứng, tạo ra năng lực mới để hình thành nhân cách theo mục tiêu đào tạo.
+ Các hành động học của sinh viên: Để thực hiện nhiệm vụ học, sinh viên phải tiến hành các hoạt động học cơ bản: phân phối và sắp xếp thời gian học tập, chuẩn bị nghe giảng bài, nghe và ghi bài giảng, chuẩn bị và tiến hành xêmina, ôn tập...Các hành động này đƣợc hình thành trong chính quá trình học tập, khi đã hình thành nó lại trở thành công cụ, phương tiện học tập giúp sinh viên nhanh chóng thích ứng với hoạt động học, góp phần nâng cao chất lƣợng học tập của sinh viên ở đại học.
Như vậy, có thể hiểu “Hoạt động học tập” là hoạt động trong đó diễn ra quá trình người học tích cực, tự giác chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của thầy.
Thích ứng với hoạt động học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ của sinh viên
Về khái niệm thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
A.V. Petrovxki và các đồng nghiệp xem thích ứng với hoạt động học của sinh viên là một quá trình phức hợp, nhiều mặt và diễn ra nhiều cấp độ như sự thích ứng của ngƣời học đối với hệ thống học tập mới, đối với sự thay đổi chế độ làm việc và nghỉ ngơi, đối với việc hòa nhập trong tập thể mới.
Theo tác giả Nguyễn Minh Đức cho rằng: sự thích ứng với hoạt động học tập là quá trình biến đổi trong đời sống tâm lý và hệ thống hành vi của người học, là quá trình người học lĩnh hội phƣơng thức hoạt động, ứng xử phù hợp đáp ứng được những yêu cầu của hoạt động học tập, hình thành được cấu tạo tâm lý mới tạo nên tính chỉnh thể của hành vi và hoạt động, đảm bảo cho học sinh tham gia hoạt động này có kết quả.
Theo Hoàng Trần Doãn thì thích ứng học tập là một quá trình thích nghi đặc biệt của cá nhân đối với điều kiện mới, là sự thâm nhập của cá nhân vào điều kiện mới một cách thuần thục và chính trong quá trình đó, con người không thụ động mà được bộc lộ trong quá trình hoạt động có đối tượng như một chủ thể động.
Như vậy, các tác giả trên đã nhấn mạnh vào tính tích cực và chủ động của người học. Đây cũng là yêu cầu hết sức quan trọng trong việc đổi mới phương pháp học tập hiện nay.
Theo tác giả, thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên theo phương thức đào tạo tín chỉ là một quá trình người sinh viên tích cực, chủ động, hoà nhập vào các điều kiện học tập, nội dung và phương pháp học tập mới, những yêu cầu, đòi hỏi mới của học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ để từ đó người học có những hành vi ứng xử phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi đó. Thông qua quá trình đó sinh viên thu nhận những tri thức mới, rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo mới để đạt hiệu quả cao trong học tập theo phương thức tín chỉ.
* Các chỉ số của sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên theo phương thức đào tạo tín chỉ thể hiện trên các mặt: Nhận thức, thái độ và hành vi.
- Thích ứng về mặt nhận thức: Nhận thức của người học là quá trình cá nhân khám phá, tìm hiểu các đặc điểm và lĩnh hội quy luật của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Nếu khả năng nhận thức tốt, nhanh nhạy, phù hợp với quy luật khách quan thì sẽ giúp quá trình thích ứng với hoạt động học tập diễn ra nhanh chóng, dễ dàng. Ngược lại, nếu khả năng nhận thức hạn chế thì sẽ là rào cản làm cá nhân nắm bắt vấn đề chậm hơn, không toàn diện và quá trình thích ứng khó khăn hơn. Theo tác giả, thích ứng về mặt nhận thức của sinh viên với hoạt động học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ bao gồm:
+ Nhận thức về vai trò của sự thích ứng đối với hoạt động học tập theo phương thức ĐTTC.
+ Nhận thức về các đặc điểm, mục đích của việc tổ chức hoạt động học tập theo phương thức ĐTTC.
+ Nhận thức về mức độ quan trọng của các hình thức học tập theo phƣơng thức ĐTTC (tự học, học tập trên lớp, làm việc theo nhóm, thảo luận).
- Thích ứng về mặt thái độ: Dù trong bất kỳ hoạt động nào, bản thân những người tham gia đều bày tỏ thái độ của mình và điều này cũng thể hiện rõ nét trong quá trình học tập của sinh viên. Những sinh viên làm chủ được cảm xúc biểu hiện ở chỗ biết tạo ra sự hài lòng, thoải mái và sự hứng thú, biết đƣa ra những đánh giá và nhận định phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn và biết điều khiển, điều chỉnh diễn biến tâm lý của mình thì thường thích ứng rất tốt với hoạt động học tập, đồng thời luôn chủ động lựa chọn được phương pháp học tập phù hợp với mục đích, nội dung, yêu cầu của hoạt động học tập nhằm đạt đƣợc kết quả tốt. Ngược lại, những sinh viên có biểu hiện thiếu kiềm chế cảm xúc, tình cảm, không hài lòng, mệt mỏi, căng thẳng, hay lo lắng, thiếu tự tin, thậm chí thờ ơ với hoạt động học tập thì họ thường thích ứng rất kém với hoạt động học tập. Thích ứng ở mặt thái độ bao gồm:
+ Thái độ với những quy định trong quy chế và thông tin về ĐTTC.
+ Thái độ với những quy định về thời gian học, thời gian thi.
+ Thái độ với việc kiểm tra - đánh giá của trường.
+ Thái độ về những quy định về việc đăng ký môn học.
+ Thái độ về nội dung đào tạo và cung cấp đề cương môn học.
+ Thái độ về phương pháp giảng dạy của giảng viên.
+ Thái độ về cơ sở vật chất phục vụ học tập.
+ Thái độ với các hình thức học tập theo phương thức ĐTTC (tự học, học tập trên lớp, làm việc theo nhóm, thảo luận).
- Thích ứng ở mặt hành vi: Đây là những biểu hiện cụ thể của chủ thể hoạt động học tập ra bên ngoài. Những người thích ứng tốt trong hoạt động học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ thường có biểu hiện chủ động, tích cực trong các hoạt động học tập. Thích ứng ở mặt hành vi bao gồm:
+ Hành vi lập kế hoạch học tập và việc thực hiện kế hoạch này.
+ Mức độ tích cực trong việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp và tham gia ý kiến xây dựng bài trong các buổi học và thảo luận.
+ Mức độ giải quyết các khó khăn mà sinh viên gặp phải trong quá trình học.
+ Mức độ tìm kiếm tài liệu phục vụ học tập.
+ Mức độ giải quyết những khó khăn của sinh viên trong quá trình đăng ký môn học.
+ Mức độ thành thạo với các hình thức học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ (tự học, học tập trên lớp, làm việc theo nhóm, thảo luận).
+ Những kiến nghị của sinh viên nhằm nâng cao sự thích ứng với HĐHT theo phương thức đào tạo tín chỉ.
Tóm lại, sự thích ứng với hoạt động học tập theo phƣơng thức đào tạo tín chỉ của sinh viên được biểu hiện qua ba mặt trên. Ba mặt này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, là một chỉnh thể thống nhất tạo nên đời sống tâm lý của con người. Thực tiễn cho thấy rằng nếu nhận thức đúng dẫn đến thái độ đúng, thì hành vi thể hiện trong quá trình học tập đúng. Ngược lại, nếu nhận thức và thái độ chƣa đúng thì hành vi cũng chưa đúng hoặc chưa chính xác. Do đó, muốn tăng khả năng thích ứng với hoạt động học tập theo phương thức đào tạo tín chỉ của sinh viên thì cần phải chú ý quan tâm đến cả ba mặt trên.
Tài liệu tham khảo
1. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quy chế đào tạo đại học ở Đại học Quốc gia Hà Nội (ban hành ngày 26/10/2010), Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
2. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Tuyển tập Tâm lý học J.Piagie, Nxb Giáo dục.
3. Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thắng (1999), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Lưu Xuân Mới (2000), Lý luận dạy học đại học, NXB Giáo dục.
5. Lê Đức Ngọc (2005), Giáo dục đại học - phương pháp dạy và học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.