0236.3650403 (221)

GIỚI THIỆU VỀ MÔ HÌNH PPP Ở VIỆT NAM


PPP là viết tắt của cụm từ tiếng Anh Public - Private - Partnership và dịch sang tiếng Việt là hợp tác công – tư

Gần đây, mô hình PPP hay hợp tác công - tư thường được nhắc đến như là một cách thức mới và hiệu quả giúp giải quyết vấn đề quá tải cơ sở hạ tầng (CSHT) - một trong những nút thắt cơ bản của nền kinh tế Việt Nam. PPP sẽ ngày càng phổ biến và đa dạng về loại hình trong cả ngắn hạn và trung hạn nên PPP phải trở thành một cơ chế bền vững hơn cho việc cung cấp dịch vụ công thông qua việc xem xét sự tương xứng về giá trị tạo ra với chi phí đầu tư, vận hành trong suốt vòng đời của dự án

Có nhiều cách hiểu khác nhau về mô hình hợp tác công - tư, nhưng cách phổ biến nhất là nhà nước và các nhà đầu tư tư nhân cùng ký một hợp đồng để phân chia lợi ích, rủi ro cũng như trách nhiệm của mỗi bên trong việc xây dựng một CSHT hay cung cấp một dịch vụ công nào đó.

Trên thực tế, mô hình này đã xuất hiện ở Pháp và Anh từ thế kỷ 18 và 19, còn ở Việt Nam thì từ đầu thập niên 1990

Giữa hai thái cực nhà nước hay tư nhân đứng ra làm toàn bộ, các hình thức còn lại, dù ít hay nhiều đều có sự tham gia của cả hai khu vực. Có 5 hình thức hợp tác công - tư phổ biến trên thế giới:

Thứ nhất, nhượng quyền khai thác (Franchise) là hình thức mà theo đó cơ sở hạ tầng được nhà nước xây dựng và sở hữu nhưng giao (thường là thông qua đấu giá) cho tư nhân vận hành và khai thác.

Thứ hai, hơi khác với nhượng quyền khai thác, ở mô hình thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành (Design- Build - Finance - Operate hay DBFO), khu vực tư nhân sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và vận hành công trìnhnhưng nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước.

Thứ ba, xây dựng - vận hành - chuyển giao (Build - Operate - Transfer hay BOT) là mô hình mà ở đó công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng và vận hành công trình trong một thời gian nhất định sau đó chuyển giao toàn bộ cho nhà nước. Mô hình này khá phổ biến ở Việt Nam.

 Thứ tư, khác biệt một chút với mô hình BOT, trong mô hình xây dựng - chuyển giao - vận hành (BTO), quyền sở hữu CSHT được chuyển giao ngay cho nhà nước sau khi xây dựng xong, nhưng công ty thực hiện dự án vẫn giữ quyền khai thác công trình.

Cuối cùng là phương thức xây dựng - sở hữu - vận hành (Build - Own - Operate hay BOO). Ở mô hình này, công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng công trình, sở hữu và vận hành nó. Mô hình BOO rất phổ biến đối với các nhà máy điện cả ở Việt Nam và trên thế giới.

Các công ty dự án đa phần thuộc sở hữu tư nhân, nhưng trong một số trường hợp chúng được thành lập theo mô hình liên doanh với nhà nước. Ngoài ra, có một mô hình đặc biệt là hợp tác công - công (public - public partnership). Theo mô hình này, đối tượng đứng ra thành lập công ty dự án là các doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước.

Mô hình PPP được sử dụng khá phổ biến vì nó có một số ưu điểm sau:

-  Để mở rộng việc cung cấp dịch vụ công

-  Tăng cường nguồn lực đầu tư trong khi ngân sách của chính phủ còn hạn chế

-  Giúp chính phủ tránh được những khoản nợ, giữ mức nợ chính phủ trong giới hạn an toàn; không làm tăng thâm hụt ngân sách.

-  Tăng hiệu quả kinh tế. Vì mục tiêu lợi nhuận nên các nhà đầu tư tư nhân phải tìm cách để dự án được vận hành hiệu quả hơn. Thêm vào đó, với việc tham gia của khu vực tư nhân, sự sáng tạo, trách nhiệm giải trình cũng như sự minh bạch có khả năng sẽ được cải thiện

-  Xã hội và nhà nước hỗ trợ khu vực tư nhân (trong và ngoài nước) thể hiện vai trò tích cực của trong tăng trưởng kinh tế.

-  Tìm phương thức quản lý và đầu tư mới

Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của mô hình PPP là chi phí lớn hơn do các nhà đầu tư tư nhân yêu cầu một suất sinh lợi cao hơn. Để tiến hành PPP, nhà nước phải bỏ ra chi phí (các khoản hỗ trợ, kích thích đối tác tư nhân, mất nguồn thu phí trong trường hơp đối tác tư nhân được thu phí, …). Xét trong ngắn hạn, nhà nước không phải chi ngân sách nhưng vẫn có nguồn vốn để đầu tư. Tuy nhiên, về dài hạn, tổng chi phí giữa việc nhà nước tự đầu tư so với việc thực hiện PPP có thể là tương đương hoặc lớn hơn (trừ trường hợp đối tác tư nhân xây dựng, thực hiện dự án, cung cấp dịch vụ có hiệu quả hơn so với nhà nước).

Hơn thế, mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân cũng là một vấn đề. Các dự án PPP thường có tổng mức đầu tư rất lớn, đối tác tư nhân có thể phải đi vay để đầu tư. Vì vậy, cần phải xem xét liệu những lợi ích của PPP có lớn hơn chi phí phải trả từ việc khu vực tư nhân đi vay với lãi suất cao hơn chính phủ đi vay hay không?.

Mô hình PPP có một số đặc điểm:

- Đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi hài hòa giữa các bên

- Sự tham gia của nhà nước

- Cơ chế tài chính của dự án PPP (khả thi về mặt tài chính, không làm tăng nợ công)

- Không phải là tư nhân hóa, nhà nước vẫn nắm quyền sở hữu, quản lý. Khi kết thúc dự án, nhà nước sẽ sở hữu công trình hoặc dịch vụ được tạo ra

Các lĩnh vực có thể thực hiện PPP

-         Đường bộ, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ

-          Đường sắt, cầu đường sắt, hầm đường sắt.

-         Giao thông đô thị.

-         Cảng hàng không, cảng biển, cảng sông.

-         Hệ thống cung cấp nước sạch.

-         Nhà máy điện.

-         Y tế (bệnh viện).

-         Môi trường (nhà máy xử lý chất thải).

-         Các Dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ

 

ThS. Hoàng Thị Xinh