FDI VÀ CÂU CHUYỆN KINH TẾ
Theo The Saigon Times
Xét về cách thức và động lực cho thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngay từ đầu, có một sự khác biệt hoàn toàn giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trung Quốc có một cách tiếp cận tích cực, lâu dài và có hệ thống đối với FDI trong khi Việt Nam dường như coi đây là giải pháp tạm thời.
Việt Nam đã mở cửa và thu hút đầu tư nước ngoài trong 30 năm. FDI đã mang lại những thành tựu và hiệu quả to lớn, tạo cho đất nước một gương mặt mới, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng GDP (GDP) và cải thiện đời sống của người dân. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia, sau khi phân tích và đánh giá, vẫn tỏ ra lo lắng và lo lắng, mà thậm chí dường như gắn liền với nhiều ưu đãi hơn nữa để tiếp tục thu hút FDI.
Trong quá trình soạn thảo Luật Đầu tư nước ngoài vào cuối những năm 1980, các nhà hoạch định chính sách và các học giả đã thảo luận sâu rộng về vai trò của FDI, tập trung vào các vấn đề như ảnh hưởng đến chủ quyền kinh tế quốc gia và các mục tiêu dự kiến như cải cách thể chế và cơ cấu, chuyển giao công nghệ và tăng năng suất. Nhìn chung, những gì đất nước đã đạt được sau ba giai đoạn thu hút FDI 10 năm là một nền kinh tế phụ thuộc rất lớn, mở rộng.
Tại một hội thảo gần đây về chiến lược thu hút FDI, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư thẳng thắn thừa nhận rằng các dự án FDI chủ yếu là lắp ráp và ký hợp đồng phụ, có hàm lượng địa phương thấp và không tạo ra nhiều giá trị gia tăng. Hơn nữa, các doanh nghiệp FDI chưa xây dựng được kết nối chặt chẽ trong chuỗi sản xuất với các doanh nghiệp Việt Nam và thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ và chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý của họ không được kỳ vọng.
Thúc đẩy chuyển giao công nghệ là trọng tâm thu hút FDI của nhiều quốc gia. Năm 2009, Việt Nam xếp thứ 57 trên thế giới về vấn đề này. Tuy nhiên, thứ hạng của quốc gia này đã giảm 46 bậc xuống 103 trong năm 2014, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực.
FDI cũng được dự kiến sẽ tạo việc làm và phát triển một lực lượng lao động có tay nghề cao, có kỷ luật với sự gắn bó lâu dài trong các ngành công nghiệp mới hình thành. Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy..
Một nền kinh tế tạm thời/thoáng qua
Phân tích trên làm cho tác giả nghĩ về một khái niệm dường như không có trong lý thuyết. Đó là một nền kinh tế thoáng qua với sự thịnh vượng hời hợt đến và đi, gợi nhớ đến một dự án FDI thú vị cách đây nhiều năm - Saigon Floating Hotel năm sao vào năm 1989-1997. Vào thời điểm đó, không có khách sạn năm sao ở thành phố Hồ Chí Minh. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, một nhà đầu tư Nhật Bản đã mua John Floatinger Reef Floating Hotel từ Úc và kéo nó về Việt Nam. Tám năm sau khi thời hạn kinh doanh của nó kết thúc với lợi nhuận đủ, khách sạn sang trọng đã được di chuyển đến nơi khác, để lại một không gian mở trong dòng sông Sài Gòn lãng mạn. Câu chuyện này có tương đồng với số phận của nền kinh tế Việt Nam trong 20 năm tới khi đất nước đánh giá 50 năm thu hút FDI và hội nhập quốc tế của cô?
Trong các cuộc thảo luận gần đây về mô hình kinh tế Việt Nam nên theo sau nhiều năm thử nghiệm khác nhau, một số cho rằng Trung Quốc là một mô hình phù hợp. Họ lập luận rằng hai nước có cùng một hệ thống chính trị, và Trung Quốc thành công, vậy tại sao không phải Việt Nam? Trong thực tế, nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển nhờ thu hút FDI thành công. Tuy nhiên, một cái nhìn vào con đường và động lực để mở cửa nền kinh tế của mỗi quốc gia ngay từ đầu cho thấy một sự khác biệt hoàn toàn. Trung Quốc có một cách tiếp cận tích cực, lâu dài và có hệ thống, trong khi Việt Nam dường như coi đó là giải pháp tạm thời. Thật không may, đất nước vẫn không thể thoát ra khỏi vị trí thụ động này ngày hôm nay khi nó một lần nữa phải chấp nhận FDI chất lượng thấp mà Trung Quốc đã từ chối. Đó là những dự án FDI nhằm tận dụng lợi thế của lao động giá rẻ hoặc sử dụng công nghệ lạc hậu với năng suất thấp và tiêu chuẩn môi trường.
Nhiều vấn đề liên quan đến phương pháp thu hút FDI có thể cần thảo luận hoặc xem xét lại khi xây dựng một chiến lược thu hút FDI mới. Ví dụ, tại sao các cơ quan chức năng trong nhiều năm qua luôn chú ý, khuyến khích và đưa ra nhiều ưu đãi cho các công ty đa quốc gia, các công ty lớn và các dự án lớn hay lớn? Môi trường đầu tư sẽ như thế nào nếu đất nước tiếp tục theo cách tiếp cận này? Ngành công nghiệp ô tô là một trường hợp điển hình. Một nhà tư vấn nước ngoài nhận xét rằng Việt Nam không thể cạnh tranh với những người khổng lồ ô tô trên thế giới. Điểm mấu chốt của vấn đề là các ngành công nghiệp hỗ trợ được vận hành bởi hàng ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thật không may, họ là nhóm mà Việt Nam quan tâm ít nhất trong nỗ lực thu hút đầu tư của mình.
Cách tiếp cận được đề xuất
Như một gợi ý cho một cách tiếp cận mới, tác giả cho rằng nó được khuyến khích để tái xác định mục tiêu chính, mà nên được để xây dựng một nền kinh tế dựa trên kinh tế phát triển. Việc sửa đổi nhiều thành công và thất bại trong việc xây dựng chiến lược quốc gia của các nước cho thấy rằng nó phải là một phương pháp khoa học và có hệ thống nhằm không chỉ thúc đẩy tăng trưởng GDP, cải thiện cơ sở hạ tầng hay thay đổi cơ cấu kinh tế mà còn cải thiện năng lực của người dân thông qua cải thiện sức khỏe điều kiện chăm sóc, giáo dục và sinh hoạt và làm việc ở cả khu vực công và tư cũng như trong nước và khu vực FDI.
Ban đầu, thay vì tiếp tục tập trung vào tiêu chuẩn GDP cổ điển, các nhà hoạch định chính sách nên chú ý đến một phép đo có ý nghĩa hơn, tổng sản phẩm quốc gia (GNP), vì GDP chỉ đo lường tổng giá trị sản phẩm được tạo ra ở Việt Nam. giá trị do người Việt Nam tạo ra. Một so sánh của hai con số này có thể làm giảm niềm tự hào và tự tin của chúng tôi. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, GDP của Việt Nam trong năm 2016 là 202,6 tỷ USD trong khi GNP là 190,8 tỷ USD, bao gồm khoảng 10 tỷ USD tiền kiều hối.
Một vấn đề khác để xem xét là các nhà chức trách nên chú ý đến từng cá nhân và điều kiện sống của họ. Trong khi cảnh báo về chuyển giao công nghệ thấp từ khu vực FDI, cơ quan đầu tư nên tham khảo yếu tố thiết yếu của kiến thức và chuyển giao kinh nghiệm thay vì đề cập đến ưu đãi về đất đai và thuế cho các dự án công nghệ cao, chính thức và dễ dàng bị lạm dụng. Ví dụ, nhiều nhà quản lý cấp cao nước ngoài phàn nàn rằng với ô nhiễm môi trường và tắc nghẽn giao thông ở các thành phố lớn như TP.HCM và Hà Nội, họ và gia đình họ ngần ngại chuyển đến đó để sống và vì thế khó có thể giữ cam kết lâu dài với đất nước.
Trở lại mối quan tâm của một nền kinh tế thoáng qua, tôi nghĩ rằng thay vì chú ý đến dòng vốn và dòng chảy vốn, đặc biệt nhanh, miễn phí và lỏng trong thời đại kinh tế kỹ thuật số, chính quyền nên tập trung vào việc tạo ra một cuộc sống ổn định môi trường. Một Việt Nam sống động sẽ không chỉ thu hút mà còn giữ cho những người ưu tú cùng với vốn và sự sáng tạo của họ. Đây có lẽ là nền tảng cho sự phát triển kinh tế quốc gia bền vững.
ThS. VÕ THỊ THANH THƯƠNG