CÁN CÂN NGÂN SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016
Đỗ Văn Tính – Khoa QTKD
Thuật ngữ ngân sách chính phủ hay ngân sách nhà nước "NSNN" có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Song quan niệm NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực tiễn của nước ta hiện nay là: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội. Tuy đa dạng, phong phú như vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung: Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội nhất định và chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà nước. Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại giá trị tổng sản phẩm xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Tình trạng NSNN của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2016 diễn biến ra sao và nguyên nhân là gì,…được cụ thể hóa như sau:
(1) Nợ công cao, áp lực trả nợ lớn. Đến cuối năm 2015, nợ công bằng 62,2% GDP; nợ Chính phủ 50,3% (vượt trần quy định là 50%); nợ nước ngoài của quốc gia 43,1%. Trường hợp tăng trưởng năm 2016 không đạt mục tiêu đề ra thì các tỷ lệ này sẽ còn cao hơn. Nghĩa vụ chi trả nợ lãi trực tiếp năm 2015 bằng khoảng 8,4% tổng thu NSNN (nếu tính cả trả nợ gốc thì bằng trên 26%). Chi trả nợ giai đoạn 2011-2015 gấp 1,86 lần giai đoạn 2006-2010. Dự báo chi trả nợ sẽ tiếp tục tăng cao hơn trong các năm 2016, 2017 và 2018.
Việc sử dụng vốn đầu tư còn kém hiệu quả. Chỉ số ICOR bình quân giai đoạn 2011-2015 là 6,92, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Một số dự án sử dụng vốn đầu tư công hiệu quả thấp, lãng phí lớn.
Nợ đọng xây dựng cơ bản lớn. Quản lý đầu tư, khai thác, thu phí tại nhiều dự án BOT còn bất hợp lý, thiếu công khai, minh bạch, gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp. Quản lý sử dụng tài sản công, chi tiêu công còn lãng phí. Bội chi NSNN liên tục ở mức cao trong nhiều năm. Thu ngân sách khó khăn, nhất là ngân sách trung ương; nợ đọng thuế còn lớn. Triển khai kế hoạch vốn đầu tư công năm 2016 chậm; giải ngân đạt thấp hơn cùng kỳ, trong đó vốn NSNN chỉ đạt 32,2% kế hoạch (cùng kỳ 2015 đạt 44,4%), vốn trái phiếu Chính phủ đạt khoảng 22% (cùng kỳ đạt 34%). Cơ cấu chi NSNN còn bất hợp lý; tỷ trọng chi đầu tư phát triển giảm từ 28% giai đoạn 2006-2010 xuống còn 23,4% giai đoạn 2011-2015; tỷ trọng chi thường xuyên tăng từ 55% lên 65%, chủ yếu do tăng chi cho con người và tiền lương.
(2) Xử lý nợ xấu còn chưa thực chất và gặp nhiều khó khăn. Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) mới xử lý được 32.400 tỷ đồng trong tổng số 241.000 tỷ đồng nợ xấu đã mua (đạt 13,4%). Một số ngân hàng thương mại quản lý yếu kém, thua lỗ, mất vốn, nợ xấu lớn, để xảy ra vi phạm pháp luật. Các thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản phát triển chưa bền vững và còn tiềm ẩn rủi ro.
(3) Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp; năng lực quản trị, giám sát nội bộ còn yếu kém. Một số dự án đầu tư lớn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước chậm tiến độ, kéo dài, hiệu quả thấp, thua lỗ, lãng phí, dừng đầu tư, dừng hoạt động; công tác quản lý cán bộ còn nhiều bất cập, chưa phát hiện và xử lý vi phạm kịp thời, để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.
Tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành của DNNN chưa đạt kế hoạch; tỷ lệ vốn đã được cổ phần hóa đạt thấp; số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong 6 tháng mới bằng 71%, thoái vốn nhà nước bằng 11,6% so với cùng kỳ; xử lý vướng mắc về tài chính, đất đai trong chuyển đổi công ty nông, lâm nghiệp còn chậm.
(4) Quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường còn nhiều hạn chế. Quy định về tiêu chuẩn môi trường còn bất cập, chậm được hoàn thiện; thực thi pháp luật về môi trường chưa nghiêm; đánh giá tác động môi trường khi cấp phép dự án đầu tư còn hình thức, giám sát thực hiện còn nhiều yếu kém; phát hiện, xử lý vi phạm chưa kịp thời; đã xảy ra sự cố môi trường nghiêm trọng do Dự án Formosa Hà Tĩnh gây ra.
Tình trạng khai thác tài nguyên, khoáng sản, chặt phá rừng trái phép, cháy rừng còn nghiêm trọng; riêng rừng tự nhiên ở Tây Nguyên giai đoạn 2010-2014 giảm 273.000 ha. Đất rừng ở nhiều địa phương bị xâm hại nghiêm trọng. Chất lượng môi trường tự nhiên (không khí, nước, biển, rừng) nhiều nơi bị xuống cấp. Vấn đề chất thải rắn, xả thải ở nông thôn và đô thị còn rất nghiêm trọng. Tình hình khí hậu diễn biến bất thường, rét đậm, rét hại ở phía Bắc, hạn hán kéo dài ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long nghiêm trọng nhất trong nhiều năm qua và sự cố môi trường ở ven biển 4 tỉnh miền Trung đã gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất, đời sống và môi trường.
(5) Tăng trưởng kinh tế chậm lại, thấp hơn cùng kỳ năm 2015 (5,52% so với 6,32%). Lần đầu tiên sau nhiều năm, khu vực nông nghiệp giảm 0,18%, sản lượng lúa vụ Đông Xuân giảm 1,34 triệu tấn. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) chỉ tăng 7,5% (cùng kỳ tăng 9,7%); trong đó công nghiệp khai khoáng giảm 2,2% (cùng kỳ tăng 8,48%). Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng thấp hơn cùng kỳ (5,9% so với 9,2%), trong đó nhiên liệu, khoáng sản giảm 38,7%, nhóm công nghiệp chế biến chỉ tăng 8,2% (cùng kỳ là 18%). Tổng kim ngạch nhập khẩu giảm 0,5% (cùng kỳ tăng 17,1%). Sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Quy định về điều kiện kinh doanh còn phức tạp, nhiều giấy phép con. Doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận vốn, lãi suất vay còn cao. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Quản lý thị trường trong nước và thương mại biên giới có mặt còn bất cập; sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi bán lẻ hiện đại còn hạn chế. Buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không bảo đảm an toàn thực phẩm còn nhiều, gây bức xúc xã hội. Tình trạng vật tư nông nghiệp giả, kém chất lượng còn nghiêm trọng, nhất là thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, giống cây trồng. Còn diễn ra nhiều vụ lừa đảo trong bán hàng đa cấp, tín dụng đen.
(6) Tái cơ cấu nhiều ngành, lĩnh vực triển khai chậm, còn lúng túng. Xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương còn hình thức, chưa quan tâm đúng mức đến phát triển sản xuất và đời sống của người dân, nợ xây dựng nông thôn mới lớn . Phát triển công nghiệp hỗ trợ chậm, chưa đạt mục tiêu đề ra. Quản lý du lịch còn nhiều bất cập, nhất là đối với tour và hướng dẫn viên. Sự cố môi trường biển ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động du lịch, dịch vụ ở 4 tỉnh miền Trung.
(7) Đời sống một bộ phận người dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai và sự cố môi trường. Sức ép tạo việc làm lớn, nhất là cho thanh niên và sinh viên mới tốt nghiệp. Nợ bảo hiểm xã hội còn cao (trên 12.000 tỷ đồng). Quá tải bệnh viện khắc phục chậm; quản lý nhiều dịch vụ tại bệnh viện còn bất cập; xảy ra nhiều vụ việc sai sót nghiêm trọng trong khám chữa bệnh. Tình trạng sử dụng chất cấm và sản xuất kinh doanh thực phẩm không an toàn diễn biến phức tạp. Chất lượng giáo dục đại học, dạy nghề chuyển biến chậm, chưa đáp ứng nhu cầu xã hội. Xảy ra nhiều vụ trẻ em đuối nước nghiêm trọng. Khoa học công nghệ ứng dụng chưa nhiều, đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội còn hạn chế. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học công nghệ công lập, phát triển thị trường còn nhiều khó khăn, số doanh nghiệp khoa học công nghệ còn ít, quy mô nhỏ. Giải quyết nhà ở và xây dựng thiết chế văn hóa cho công nhân ở khu công nghiệp tập trung chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều biểu hiện tiêu cực, xuống cấp về đạo đức, lối sống gây bức xúc; tệ nạn xã hội còn phức tạp.
(8) Cải cách hành chính, năng lực xây dựng, thực thi pháp luật, cơ chế chính sách vẫn còn hạn chế, còn đùn đẩy trách nhiệm, phối hợp thiếu chặt chẽ giữa các bộ ngành, địa phương. Còn tình trạng văn bản pháp luật ban hành chậm, nhất là thông tư hướng dẫn thi hành pháp luật; một số quy định chưa khả thi, còn nhiều vướng mắc. Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực còn phiền hà, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp. Kỷ luật kỷ cương trong bộ máy hành chính và trong xã hội chưa nghiêm; năng lực, phẩm chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng tham nhũng còn nghiêm trọng, xảy ra nhiều vụ tham nhũng lớn trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng, đất đai... Việc kê khai tài sản còn hình thức; giám sát, kiểm tra, thanh tra hiệu quả thấp. Lãng phí trong cơ quan nhà nước và toàn xã hội còn lớn. Kết quả giải quyết khiếu nại tố cáo còn hạn chế; vẫn còn nhiều vụ khiếu nại tố cáo đông người.
(9) Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức. Xảy ra tai nạn nghiêm trọng trong huấn luyện bay và tìm kiếm cứu nạn. Công tác bảo đảm an toàn cho ngư dân hoạt động trên biển còn nhiều khó khăn. Trật tự an toàn xã hội, tình hình tội phạm trên một số địa bàn diễn biến phức tạp, nhất là ở một số thành phố lớn. Còn nhiều vụ tai nạn giao thông và cháy nổ nghiêm trọng. Công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng còn nhiều hạn chế. Hiệu quả triển khai một số hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế chưa cao. Thông tin truyền thông về hội nhập và ứng phó với các thách thức của tiến trình hội nhập vẫn còn hạn chế, chưa chủ động. Thời gian qua, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu kéo dài, trong điều kiện NSNN hạn hẹp, chúng ta phải tập trung huy động nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kết cấu hạ tầng và đáp ứng các yêu cầu chi cấp bách về an sinh xã hội, quốc phòng an ninh, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Do đó, nợ công tăng nhanh, ở mức cao, dư địa chính sách, nhất là về tài khóa, tiền tệ và nguồn lực cho phát triển giai đoạn tới rất hạn hẹp. Để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 và 5 năm 2016-2020, chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện, sâu rộng, có những đột phá về cơ chế chính sách và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, quyết liệt hành động, huy động mọi nguồn lực, phát huy dân chủ, sáng tạo của người dân và doanh nghiệp.
Kết quả là: Tăng trưởng kinh tế chững lại là điểm nhấn nổi bật nhất trong bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2016, chỉ đạt 5,52% so với cùng kì năm 2015, mặc dù GDP trong quý II đã phục hồi tốt hơn quý I. Nguyên nhân do ngành nông nghiệp tăng trưởng âm là do tình hình thiên tai khắc nghiệt, khai khoáng suy giảm, một số ngành như xây dựng, bất động sản, tiêu dùng tăng trưởng chững lại; Lạm phát tăng hơn so với cùng kì năm ngoái do giá một số dịch vụ giáo dục và y tế được điều chỉnh tăng, giá thực phẩm tăng do tình hình thời tiết khắc nghiệt. Lạm phát năm 2016 dự kiến tiệm cần mức 5% do còn nhiều yếu tố tác động tăng trong nửa cuối năm: điều chỉnh giá dịch vụ công, giá dầu thế giới có xu hướng tăng, chính sách tiền tệ nới lỏng vẫn được duy trì; Hoạt động của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, số lượng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động lớn, đặc biệt với nhóm có quy mô dưới 10 tỷ đồng và hoạt động tại khu vực Đông Nam Bộ; Xu hướng thắt chặt đầu tư công tiếp tục diễn ra trong bối cảnh thu ngân sách tăng chậm, nợ công lớn. Thu ngân sách 6 tháng tăng chậm 4,8% (các nguồn thu chính từ dầu thô và xuất nhập khẩu sụt giảm), chi cho đầu tư phát triển giảm 7,8%, tỷ lệ nợ công theo ước tính của HSBC sẽ chạm mốc giới hạn của Quốc Hội (65%) trong năm 2017; Tín dụng và huy động đều tăng trưởng cao hơn so với cùng kì năm trước, lãi suất trong quý II ổn định hơn so với thời điểm đầu năm. Tín dụng vẫn là động lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng cuối năm 2016. Tuy nhiên dự kiến không tăng mạnh như năm 2015 do tăng trưởng kinh tế năm 2016 dự kiến thấp hơn năm 2015; Cán cân thương mại duy trì xuất siêu 1,5 tỷ USD. Xuất khẩu tăng chậm hơn cùng kì, nhập khẩu sụt giảm do nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp và tiêu thụ của người dân chững lại đã góp phần ổn định tỉ giá trong nửa đầu năm 2016. Bên cạnh đó, vốn FDI giải ngân tăng tốt cùng với các giải pháp điều hành thị trường ngoại hối của NHNN giúp ổn định thị trường mặc dù tỉ giá trong quý II chịu nhiều biến động hơn thời điểm đầu năm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những nguyên lý của kinh tế học (tập 2, 2002) - NXB Thống kê
2. TS. Trương Tấn Diệp (2001) – Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - NXB Thống kê
3. N.Gregory Mankiw (7th), Harvard University, Macroeconomics
8. http://bizlive.vn/tags/can-can-thuong-mai.html