CÁC PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM (PHẦN 2)
2/ Huy động vốn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và điều khoản cam kết giữa TCTD và người mua.
Các giấy tờ có giá là công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng một mục đích nào đó. Lãi suất phụ thuộc vào sự cần thiết của huy động vốn nên thường cao hơn lãi suất có kì hạn gửi thông thường. Các giấy tờ có giá do NHTM phát hành bao gồm:
- Trái phiếu: là một chứng thư xác nhận một khoản nợ cảu ngân hàng phát hành đối với người sỡ hữu, trong đó cam kết sẽ hoàn trả nợ kèm thep lãi trong một gian nhất định. Đây là công cụ Nợ dài hạn của ngân hàng và thông qua việc phát hành trái phiếu, ngân hàng có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư trung, dài hạn để phục vụ cho những kế hoạch quy mô lớn và dài hạn.
- Kỳ phiếu: kỳ phiếu ngân hàng là chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn, có lãi suất tương ứng với từng loại kỳ hạn hoặc phương thức trã lãi trước hoặc sau. Kỳ phiếu được ngân hàng phát hành từng đợt, có thời hạn linh hoạt, phong phú…
- Chứng chỉ tiền gửi: Chứng chỉ tiền gửi là công cụ nợ do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường với bản chất tương tự như một khoản lãi suất định kỳ tính toán trên cơ sở 365 ngày và được hoàn trả khi đến hạn. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi rất đa dạng, lãi suất của chứng chỉ tiền gửi được ngân hàng ấn định dựa trên lãi suất cạnh tranh của thị trường tiền tệ, tình trạng tài chính của người phát hành và thời hạn của chứng chỉ. Việc phát hành chứng chỉ tiền gửi cho phép ngân hàng có thể huy động vốn một cách chủ động phụ thuộc vào tiền gửi của khách hàng.
2/ Huy động bằng hình thức đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM và NHTW hoặc giữa các NHTM với nhau hay với các TCTC khác. Vì tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, Ngân hàng trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn huy động và vốn chủ của nó.Do vậy nhiều ngân hàng vào từng giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
- Vay ngân hàng trung ương:
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay NHTW. Hình thức cho vay chủ yếu của NHTW là tái chiết khấu. Khi cần tiền, NHTM đem thương phiếu lên tái chiết khấu tại NHTW. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTW) tăng lên. NHTW điều hành vay mượn một cách chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường NHTW chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của NHTW trong từng thời kỳ.
- Vay các tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó là nguồn bổ sung thay thế cho nguồn vay mượn từ NHTW.
Lê Phúc Minh Chuyên