CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố và biến động một cách tự phát. Do đó, Nhà nước có thể áp dụng nhiều phương pháp để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Các biện pháp chủ yếu được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái là chính sách chiết khấu, chính sách hối đoái và dự trữ bình ổn hối đoái, chính sách phá giá, nâng giá tiền tệ,…
1. Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là chính sách của NHTW dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu của ngân hàng mình để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái lên cao đến mức nguy hiểm, muốn làm cho tỷ giá hạ xuống thì ngân hàng trung ương nâng cao tỷ suất chiết khấu lên, do đó, lãi suất trên thị trường cũng tăng lên, kết quả là vốn ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ chạy vào nước mình để thu lãi cao. Lượng vốn chạy vào sẽ góp phần làm dịu sự căng thẳng của cầu ngoại hối, do đó, tỷ giá hối đoái sẽ có xu hướng giảm xuống.
Chính sách chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có hạn đối với tỷ giá hối đoái bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất không có quan hệ nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động vốn giữa các nước.
Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi suất có thể biến động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một tình hình đặc biệt có thể vượt quá tỷ suất lợi nhuận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung cầu về ngoại hối quyết định mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định. Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá hối đoái không giống nhau, do đó mà biến động của lãi suất không nhất định đưa đến tỷ giá hối đoái biến động theo.
Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nhưng khi tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước đó không ổn định tì không nhất thiết thực hiện được, bởi vì đối với vốn nước ngoài, vấn đề lức đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm bảo an toàn vốn chứ không phải là vấn đề thu được lãi bao nhiêu.
Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng đô la Mỹ mặc dù lãi suất trên thị trường New York cao gấp 1.5 lần thị trường London, gấp 3 lần thị trường Tây Đức nhưng vốn ngắn hạn không chảy vào thị trường Mỹ mà đổ dồn chạy thẳng vào Tây Đức và Nhật Bản, mặc dù các nước này thực hiện chính sách lãi suất thấp bởi vì nguy có phá giá đô la trong thời gian này khá cao.
Tuy nhiên không nên coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình hình tiền tệ của các nước đều địa thể như nhau thì phương hường đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao. Do đó, hiện nay chính sách chiết khấu vẫn có ý nghĩa.
Vd: Năm 1964, ngân hàng Anh quốc nâng tỷ suất chiết khấu từ 5% lên 7% đã thu hút được vốn ngắn hạn chảy vào Anh, góp phần giải quyết những khó khăn của cán cân thanh toán quốc tế của Anh.
2. Chính sách hối đoái và quỹ dự trữ bình ổn hối đoái
Chính sách hối đoái hay còn gọi là chính sách thị trường mở là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái, có nghĩa là NHTW hay các cơ quan ngoại hối vủa Nhà nước dùng nghiệp vụ trực tiếp mua bán ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Khi tỷ giá hối đoái lên cao, NHTW tung ngoại hối bán ra để kéo tỷ giá hối đoái xuống. Muốn thực hiện được biện pháp này, NHTW phải có dự trữ ngoại hối lớn. Song, nếu tình hình thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế của một nước kéo dài thì khó có nguồn dự trữ ngoại hối lớn để thực hiện chính sách này.
Trong tình hình như trên, các nước tư bản chủ nghĩa phải dựa vào vốn dự trữ ngoại hối của nhau để cứu nguy đồng tiền của một nước nào đó. Vì vậy, 14 nước tư bản chủ nghĩa phát triển và Mỹ đã ký hiệp định “SWAP” để hỗ trợ lẫn nhau giữa các NHTW nhằm tác động đến quan hệ cung cầu ngoại hối của nước sử dụng tín dụng “SWAP”, do đó, ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của nước đó.
Chính sách chiết khấu và chính sách ngoại hối đều dẫn đến mâu thuẫn giữa các tập đoàn tư bản trong nươc, giữa thương nhân xuất khẩu muốn nâng cao tỷ giá hối đoái lên với thương nhân nhập khẩu muốn hạ thấp tỷ giá hối đoái xuống, giữa nhà nhập khẩu muốn nâng tỷ giá hối đoái và nhà xuất khẩu vốn muốn hạ thấp tỷ giá hối đoái và mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau vì tỷ giá hối đoái của một nước nâng lên thì hạn chế xuất khẩu hàng hóa của nước khác nhưng lại khuyến khích xuất khẩu vốn của nước khác. Do đó làm cho cán cân thương mại và cán cân thanh toán của nước ngoài đó với nước thực hiện hai chính sách này bị thiệt hại.
Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái là một hình thức biến tướng của chính sách hối đoái, mục đích của nó là nhằm tạo ra một cách chủ động một lượng dự trữ ngoại hối để ứng phó với sự biến động của tỷ giá hối đoái, thông qua chính sách hoạt động công khai trên thị trường.
Về nguyên tắc thì NHTW nước không chịu trách nhiệm điều tiết sự biến động của tỷ giá thả nổi. Song, do khủng hoảng ngoại hối trầm trọng, tiền tệ các nước ngày một mất giá và tỷ giá biến động mãnh liệt đã ảnh hưởng đến sản xuất và lưu thông hàng hóa, các nước đã thành lập quỹ bình ổn hối đoái để điều tiết tỷ giá của đồng tiền nước mình.
Theo số liệu của Ngân hàng dự trữ liên bang New York, các nước tư bản chủ nghĩa đã chi một khoản tiền khá lớn trích ra trong quỹ của mình khoảng 300 tỷ đô la Mỹ từ đầu năm 1973, trong đó, chỉ riêng từ tháng 08/1977 đến tháng 02/1978 đã chi ra 60 tỷ đô la Mỹ để duy trì tỷ giá hối đoái của họ. Riêng tháng 03/1978, quỹ của ngân hàng dự trữ liên bang và khoản tín dụng “SWAP” đã đạt tới 22,6 tỷ đô la Mỹ để phục vụ mục đích này.
Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng tác dụng của quỹ bình ổn hối đoái rất có hạn vì một khi đã bị khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng ngoại hối, lượng dự trữ theo quỹ đó cũng giảm đi và không đủ sức điều tiết tỷ giá. Quỹ này chỉ có tác dụng khi khủng hoảng ngoại hối ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng quốc tế hỗ trợ, ví dụ như tín dụng SWAP.
3. Chính sách phá giá tiền tệ
Trong những cuộc đấu tranh vì kinh tế, chính trị của các nước vì thị trường ngoài nước cũng như trong những điều kiện mức độ lạm phát rất khác nhau ở các nước đã phát sinh, vấn đề cần thiết phải xem xét lại tỷ giá tiền tệ của nước này hoặc nước khác.
Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối, khi mà sức mua của tiền tệ giảm sút mạnh và không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, khi mà trong suốt thời gian dài tỷ giá hối đoái là điều không thể tránh khỏi, song các Nhà nước không thừa nhận điều đó, họ phá giá tiền tệ lúc nào, mức độ ra sao là phụ thuộc vào mục đích kinh tế và chính trị của họ. Phá giá tiền tệ đã trở thành một chính sách kinh tế, tài chính của nhà nước để tác động đến tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế.
Phá giá tiền tệ là sự đánh tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ thấp hơn sức mua thực tế của nó.
Ví dụ: Tháng 12/1971, đô la phá giá 7,89%, tức là giá của một bảng Anh tăng từ 2,40 USD lên 2,605 USD hay là sức mua của USD giảm từ 0,416 GBP còn 0,383 GBP.
Tác dụng của phá giá tiền tệ đối với nước tiến hành phá giá có thể là:
- Khuyến khích xuất khẩu hàng hóa, do đó có tác dụng khôi phục lại sự cân bằng của cán cân ngoại thương, nhờ vậy góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
- Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối và hạn chế xuất khẩu vốn ra bên ngoài cũng như chuyển tiền ra ngoài nước. Do đó, có tác dụng làm tăng khả năng cung ngoại hối, giảm nhu cầu về ngoại hối, nhờ đó tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống.
- Khuyến khích du lịch vào trong nước, hạn chế du lịch ra nước ngoài, vì vậy quan hệ cung cầu ngoại hối bớt căng thẳng.
- Cướp không một phần giá trị thực tế của những ai nắm đồng tiền bị phá giá trong tay.
Tác dụng chủ yếu của biện pháp phá giá tiền tệ là nhằm cải thiện tình hình của cán cân thương mại.
Ví dụ: Do kết quả của phá giá bảng Anh 14,3% tháng 11 năm 1967 nên trong năm 1968 – 1969 sự thiếu hụt của cán cân thương mại của nước Anh đã giảm đi rõ rệt trong hai năm 1970 và 1971 cán cân thương mại của Anh đã dư thừa 12 triệu bảng Anh và 285 triệu bảng Anh.
Tuy vậy, tác dụng cải thiện cán cân thương mại có trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của nước tiến hành phá giá tiền tệ và năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của nước đó.
4. Chính sách nâng giá tiền tệ
Nâng giá tiền tệ là việc nâng sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ cao hơn sức mua của nó.
Ví dụ: Tháng 10 năm 1969, Mác Đức nâng giá lên 9,29% tức là ở Đức tỷ giá hối đoái 1 USD = 4 DEM đã giảm còn 1 USD = 3,66 DEM tức là đô la Mỹ giảm giá, ngược lại giá của Mác Đức đã tăng từ 1 DEM = 0.25 USD lên 1 DEM = 0,27 USD.
Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương của một nước hoàn toàn ngược lại với phá giá tiền tệ. Nâng giá tiền tệ trong những điều kiện hiện nay thường xảy ra dưới áp lực của nước khác mà các nước này mong muốn tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa của nước mình vào nước có cán cân thanh toán và cán cân thương mại dư thừa.
Đức là môt nước có cán cân thanh toán và cán cân thương mại dư thừa đối với Mỹ, Anh và Pháp, để hạn chế xuất khẩu hàng hóa của Đức vào nước mình, Mỹ, Anh và Pháp thúc ép Đức phải nâng giá Mác Đức. Sau khi nâng hàm lượng vàng của Mác Đức lên 5% vào năm 1961, chính phủ Đức đã phải nhiều lần nâng giá đồng tiền của mình dưới áp lực của các nước bạn hàng như Mỹ, Anh, Pháp và Ý. Tình hình đối với đồng Yên Nhật cũng tương tự như vậy và còn thậm tệ hơn. Hiện nay Yên đã lên giá quá cao USD/JPY = 102 năm 1996, so với 1971 là 360 lần.
Ngoài ta, không loại trừ khả năng để tránh phải tiếp nhận các đồng đô la mất giá đang “chạy trốn” khỏi Mỹ và Anh, chính phủ Đức và Nhật coi biện pháp nâng giá đồng tiền của mình như là một biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa đô la mất giá chạy vào nước mình và giữ vững lưu thông tiền tệ và tín dụng, duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái.
Những nước có nền kinh tế phát triển quá “nóng” như Nhật Bản, muốn làm “lạnh” nền kinh tế để tránh cơ cấu thì sẽ dùng biện pháp nâng giá tiền tệ để giảm xuất khẩu hàng hóa, giảm đầu tư vào trong nước.
Việc nâng giá đồng Yên của Nhật Bản cũng tạo điều kiện để Nhật Bản chuyển vốn đầu tư ra bên ngoài nhằm xây dựng một nước Nhật “kinh tế” trong lòng các nước khác, nhờ vào đó mà Nhật giữ vững được thị trường bên ngoài, một vấn đề sống còn đối với Nhật Bản.
LÊ PHÚC MINH CHUYÊN