CÁC NHÀ SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI NƯỚC NGOÀI ĐỀ NGHỊ GIẢM GIÁ CAO CHO CÁC ĐẠI LÝ
Theo Thùy Dung - TheSaiGon Times
Nhóm nghiên cứu bao gồm các quan chức của các Bộ: Phát triển nông nghiệp-nông thôn, an ninh công cộng, quy hoạch-đầu tư, ngành công nghiệp-thương mại và tài chính kiểm tra các nhà sản xuất thức ăn gia súc và thủy sản lớn có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) theo yêu cầu của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh. Ông đã ra lệnh kiểm tra sau khi các nhà sản xuất thức ăn gia súc bị cáo buộc về việc chuyển giá và thao túng thị trường.
Ông Nguyễn Huy Điền, Phó tổng giám đốc của Tổng cục Thủy sản thuộc Bộ Nông nghiệp, phát biểu tại một cuộc họp báo tại Hà Nội hôm thứ Ba rằng bảy công ty chăn nuôi và thức ăn thủy sản với nguồn vốn từ FDI đã được khống chế thị phần và kiểm tra.Ông cho biết nhóm nghiên cứu thấy không có dấu hiệu chuyển giá tại bảy công ty nhưng họ đã thực hiện việc giảm giá và hoa hồng từ 20-30% cho các đại lý bán hàng. "Một số đại lý chỉ bán vài chục tấn thức ăn mỗi năm, nhưng họ có thể nhận được hoa hồng rất lớn và thậm chí cả một chiếc xe Camry trị giá hàng tỷ đồng Việt Nam," Ông cho biết thêm và đề nghị Bộ Tài chính xem xét vấn đề này.
Về việc chuyển giá, ông Điền cho biết, các bộ phát động nhiều cuộc thanh tra vào các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực này nhưng không ai trong số họ cho thấy việc thao túng giá hoặc cam kết chuyển giá. Trong 15 năm qua, nhiều công ty lớn của nước ngoài đã đầu tư vào các ngành công nghiệp thức ăn chăn nuôi và thủy sản và thống trị thị trường thức ăn chăn nuôi trong nước. Họ là những CP từ Thái Lan; Grobest, Uni President, Á Dinh dưỡng từ Đài Loan; Thăng Long, Tongwei và Hoa Chen từ Trung Quốc; CJ Thạc sĩ từ Hàn Quốc; Tomboy và Proconco từ Pháp; và Cargill từ Mỹ. Xét về thức ăn nuôi tôm, Grobest, Uni President và CP có thể bật ra đầu ra kết hợp hàng năm trên 600.000 tấn, tương đương 80% của thị trường. Chủ sở hữu của một nhà máy thức ăn thủy sản địa phương cho biết các doanh nghiệp FDI có nhiều lợi thế bao gồm cả kinh doanh và kinh nghiệm sản xuất và mối quan hệ chặt chẽ với các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào. Quan trọng hơn, họ rất mạnh về tài chính và có thể tiếp cận vốn vay với lãi suất thấp từ các ngân hàng nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư đủ trong mạng lưới phân phối và nguồn nhân lực và tài chính của họ bị hạn chế, vì vậy họ không thể mở rộng thị phần và rất dễ bị rủi ro tỷ giá và biến động của giá nguyên vật liệu.
ThS. VÕ THỊ THANH THƯƠNG