1508 DỰ TOÁN CHI PHÍ VỐN
GIỚI THIỆU
Đầu tư vào các dự án vốn là các quyết định đầu tư dài hạn liên quan đến một lượng tiền lớn, hầu hết chúng được gây quỹ từ các nguồn lực. Dù lựa chọn hình thức đầu tư nào, thì chúng cũng sẽ khoá công ty vào một phương pháp hoạt động trong nhiều năm trong tương lai.
Mục tiêu của dự toán chi phí vốn rất đơnn giản đó là: Tăng vốn cổ phần của cổ đông bằng việc đầu tư vào các dự án vốn để tạo ra nhiều tiền hơn chi phí phải bỏ ra. Điều khó khăn là phải đầu tư vào đâu – nghĩa là, xác định các dự án nào có lợi nhuận cao nhất và ít rủi ro nhất. Hầu hết các công ty thành công đều liên tục dự toán chi phí vốn. Họ đang diễn ra các chương trình xác định, đánh gíá và lựa chọn các dự án đầu tư dài hạn quan trọng tác động đến tình trạng tài chính lành mạnh của họ
Dự toán vốn là việc phân tích và lựa chọn các dự án đầu tư dài hạn nhằm đáp ứng mục tiêu và phù hợp với nguồn lực tài chính của doanh nghiệp. Thông thường đầu tư dài hạn là việc mua lại các tài sản cố định như đất đai, nhà xưởng, nhà văn phòng, và máy móc thiết bị. các loại tài sản này thường được ví như là tài sản sinh lợi vì chúng được sử dụng như các công cụ tạo ra lợi nhuận cho công ty. Một ví dụ khác của đầu tư dài hạn là nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, thiết kế lại các sản phẩm đang tồn tại và mua lại các công ty khác. Kết quả của quá trình dự toán vốn là việc phân bổ nguồn lực vốn của công ty theo một cách mà được nhận thấy là mang đến cơ hội tốt nhất làm tăng giá trị cổ phẩn của cổ đông.
Chi tiêu vốn là một loại kinh phí của vốn được kì vọng tạo ra nhiều lợi nhuận hơn qua thời gian trên một năm, như việc đầu tư vào các phương tiện và trang thiết bị. Chi tiêu hiện hành, lại khác là một phần chi phí bỏ ra được kì vọng sẽ đem lại lợi ích trong một năm như mua nguyên vật liệu, hàng hoá để bán lại, hay đồ cung ứng các hoạt động trong doanh nghiệp
Quy trình dự toán vốn bắt đầu với các phương án đề xuất. Y tưởng về sản phẩm mới, có thể đến từ những lời kiến nghị của khách hàng hoặc cũng có thể là kết quả của việc nghiên cứu và phát triển. Ý tưởng về cắt giảm chi phí có thể đến từ công nhân, nhân viên hay cũng có thể là của các chuyên gia công nghệ về các trang thiết bị sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, hay phân phối sản phẩm.
Các nhà quản trị tài chính phải lựa chọn một phương án tài chính tốt nhất trong số những những phương án có triển vọng, điều này là hoàn toàn có thể, ví dụ, sử dụng quỹ từ lợi nhuận luỹ kế, vay ngân hàng hay các tổ chức, cá nhân khác, phát hành trái phiếu hay tăng số lượng cổ phiếu lưu thông, hoặc phối hợp các cách trên
Đối với các phương án tốn kém với chi phí lớn hơn một số tiền nhất định, uỷ ban điểu hành lựa chọn những phương án được phê duyệt và được tài trợ. Các phương án đã được phê duyệt sẽ trở thành dự án. Một dự án nhỏ có thể. Các dự án nhỏ có thể được hướng dẫn và kiểm soát như một phần của chuỗi các công việc bình thường của công ty. Đội quản lý dự án được thành lập đối với các dự án lớn, phức tạp và có nhiều bộ phận chức năng trong công ty cùng tham gia hoặc liên quan đến các nhà thầu bên ngoài. (Quản lý dự án là một công việc đòi hỏi kí năng lãnh đạo tốt và sử dụng các công cụ và phương pháp thích hợp một cách chính thức hoá mà đã được mô tả trong các tài liệu phong phú về lĩnh vực này)
Giám đốc điều hành định kỳ sẽ kiểm tra lại tình trạng của dự án nó có đang theo kịp tiến độ thi công dwh án hay không thông qua các giai đoạn từ khâu nhận thức quan điểm đến khi dự án được hoàn thành. Một dự án có thể được tiếp tục, thay đổi, đẩy nhanh hay kéo giãn tiến độ hay chấm dứt ở bất kỳ giai đoạn nào
Các tình huống tiến thoái lưỡng nan mà các CFO phải đối mặt trong đầu tư đó là cân bằng các phương pháp để vừa tối đa hoá lợi nhuận thông qua tăng trưởng và hiệu quả, mặt khác vừa phải tối thiểu hoá rủi ro. Chương này và các quan điểm đánh giá tiếp theo theo một cách xác định sẽ chỉ ra các khoản chi trả tài chính được dựa trên các điều kiện cho trước. Bao gồm việc phân tích độ nhạy để hiểu khi các điều kiện thay đổi sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc thanh toán. Điều không may là các điều kiện không phải lúc nào cũng chắc chắn. điều này sẽ dẫn đến chương 15, với các ý kiến đánh giá theo xác suất để xác định các khả năng và rủi ro liên quan tới việc thanh toán gây ra bởi các điều kiện không chắc chắn.
DÒNG TIỀN
Dự toán vốn liên quan tới các dòng tiền. Việc tập trung vào các dòng tiền phân biệt với việc dự toán vốn thông qua dự toán chi phí kế toán, giữa lợi nhuận và mất mát. Ví dụ, mua một thiết bị với giá $1 triệu bằng tiền mặt có nghĩa là dòng tiền ra hiện tại là $1 triệu. Tuy nhiên, nếu thiết bị này được tính khấu hao theo phương pháp khấu hao đường thẳng trong 10 năm cho đến khi giá trị còn lại bằng 0, thì chi phí hiện tại của nó chỉ là $100,000. $900,000 còn lại sẽ được thể hiện trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm của công ty trong 9 năm tiếp theo dưới khoản mục chi phí khấu hao $100,000. Khấu hao luỹ kế sẽ được thể hiện trên bảng cân đối kế toán.
Các dòng tiền liên quan với phân tích ngân sách vốn của một dự án phải là dòng tiền gia tăng liên quan đến dự án. Nói cách khác, các dòng tiền phát sinh thêm ngoài các dòng tiền đã có trong công ty, hay các dòng tiền sẽ tiếp tục phát sinh nếu dự án không được thực hiện. Ví dụ, nếu việc giới thiệu một sản phẩm mới làm giảm doanh thu bán hàng từ sản phẩm hiện có, các dòng tiền có liên quan chỉ là sự gia tăng doanh thu bán hàng - nghĩa là các dòng tiền gia tăng từ doanh thu bán hàng được tạo ra bởi các sản phẩm mới trừ đi tác động của nó đến doanh thu bán hàng giảm của sản phẩm cũ.
Các dòng tiền bao gồm cả sự ảnh hưởng của chi phí khấu hao và thuế, những vấn đề này đã được thảo luận trong các chương trước. việc tính toán giá trị hiện tại ròng của đầu tư, tỉ suất sinh lợi, thời kì hoàn trả phải dựa trên dòng tiền sau thuế. Việc xác định dòng tiền trước và sau thuế là chìa khoá cho dự toán vốn
Chi phí chìm không bao gồm chi phí phân tích các dòng tiền của dự án. Chi phí chìm là các chi phí đã phát sinh trong quá khứ và không thể thu hồi. Chi phí tài chính cũng không bao gồm chi phí phân tích các dòng tiền. Dù quan trọng, chi phí tài chính là chi phí ẩn được bao gồm trong tỉ lệ chiết khấu được dùng để đánh giá giá trị hiện tại ròng và tỉ suất sinhh lợi của dự án.
Các dòng tiền gồm 3 giai đoạn: (1) kinh phí ban đầu, (2) các dòng tiền trong tương lai, và (3) các dòng tiền ở giai đoạn cuối.
KINH PHÍ BAN ĐẦU
Kinh phí ban đầu là dòng tiền ra phát sinh tại thời điểm 0 (thời điểm bắt đầu dự án). Kinh phí ban đầu bao gồm tất cả các khoản chi phí để xây dựng và chạy dự án. Ví dụ, kinh phí ban đầu cho các thiết bị mới không chỉ bao gồm giá mua thiết bị, chi phí vận chuyển và lắp đặt mà còn bao gồm cả chi phí đào tạo nhân viên để hoạt động được các thiết bị này. Một ví dụ khác, kinh phí ban đầu của một toà nhà văn phòng không chỉ bao gồm giá phải trả cho người bán mà còn phí môi giới và tất cả các chi phí cho việc tu sửa lại cho phù hợp với nhu cầu sử dụng. Tổng các chi phí này là tổng giá căn bản tính khấu hao cho dự án. Tổng số tiền đó sẽ được tính khấu hao theo vòng đời của dự án.
Khi mua một thiết bị mới để thay thế cho thiết bị cũ, tổng thu nhập nhận được từ việc bán thiết bị cũ phải được đưa vào tính trong chi phí ban đầu. Điểu này có thể sẽ liên quan đến việc tính thuế. Nếu giá thị trường hay giá bán của thiết bị cũ lớn hơn giá trị sổ sách, thuế được thanh toán tính trên phần chênh lệch lãi. Mặt khác, khi giá bán thiết bị cũ nhỏ hơn giá trị sổ sách, đó là một khoản lỗ trên vốn nên doanh nghiệp sẽ được giảm thuế thu nhập
Chi phí trả trước liên quan đến tài sản vốn (ví dụ, các khoản trả trước theo hợp đồng để chi trả cho các khoản bảo dưỡng và các dịch vụ khác) cũng được tính trong dòng tiền ra ban đầu của dự án.
DÒNG TIỀN TƯƠNG LAI
Dòng tiền trong tương lai dự kiến tạo ra bởi dự án bao gồm (1) thu nhập phụ, (2) các khoản tiết kiệm chi phí, (3) chi phí phụ, và (4) thuế. Thu nhập phụ được hiểu là sự gia tăng doanh thu bán hàng từ các sản phẩm mới, dịch vụ mới hoặc bán thành phẩm. Các khoản tiết kiệm chi phí có thể là kết quả của việc máy móc thiết bị mới làm giảm chi phí nhân công (ví dụ, thay thế các máy móc thiết bị điều khiển bằng tay bằng máy móc thiết bị tự động), cải tiến hiệu quả sản xuất, hay giảm chi phí bảo dưỡng và sửa chữa. các khoản chi phí phụ có thể bao gồm chi phí nhân công và nguyên vật liệu liên quan đến sử dụng thiết bị mới, thuê chuyên gia tư vấn hay các dịch vụ ngoài cho chương trình máy tính, thiết bị tự động, hoặc cũng có thể chi phí tồn kho cho nguyên vật liệu và thành phẩm lớn hơn. Thêm vào đó, chi phí đầu tư ban đầu cũng bao gồm chi phí bảo dưỡng và sửa chữa chính các vốn đầu tư mới thêm vào để gia tăng công suất hoặc năng suất. các khoản chi phí như sửa chữa lớn máy móc thiết bị và xây dựng mở rộng đã hội đủ điều kiện để được coi là chi phí vốn cơ bản hơn là các khoản chi phí hoạt động phụ. Các khoản thuế là thuế thu nhập phải trả cho các dòng tiền.
Khấu hao, mặc dù được điều chỉnh trong sổ sách kế toán chứ không phỉa là dòng tiền thực tế nhưng nó đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến dòng tiền sau thuế. Khấu hao làm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp,là một khoản thu hồi lại, làm giảm thuế cho doanh nghiệp. vì thế, kết quả của việc khấu hao ròng sẽ làm tăng dòng tiền sau thuế của doanh nghiệp.
DÒNG TIỀN CUỐI KỲ
Dòng tiền cuối kì bao gồm các dòng tiền ngoài dự kiến hàng năm của giai đoạn cuối, các dòng tiền chắc chắn phát sinh chỉ trong giai đoạn cuối của dự án. Bao gồm dòng tiền từ việc bán lại tài sản cố định và nó cũng sẽ ảnh hưởng đến thuế, các dòng tiền thu hồi lại từ việc đầu tư vào vốn lưu động ròng (ví dụ như dòng tiền thu hồi lại từ việc giảm chi phí tồn kho), các khoản hoàn trả cho các khoản nợ chưa được chi trả để đầu tư vào tài sản cố định, và bất kỳ các khoản chi phí cho việc ngừng hoạt động.
ThS. Nguyễn Huy Tuân